Tiểu Sử Gia Đ́nh Họ
Nguyễn tại
Vĩnh Trinh Long Xuyên
(1920 – 2000)
Hồi
Kư, Huỳnh Kim Măng
Đôi lời hồi kư
Sau
đây tôi ghi chép những kỹ niệm sống của suốt
một đời người, 80 năm dưới mái nhà
xưa, nơi ở và nơi thờ cúng Ông Bà, qua những
biến đổi không ngừng để đi đến
hiện trạng đại gia đ́nh năm 2000.
Tôi ghi chép một cách trung thực những sự
việc đă xảy ra trong nội bộ gia đ́nh và trong
một giai đoạn bể dâu biến đổi toàn diện.
Mong rằng cái quá khứ tận nguồn cội
này không bị che lấp dưới bụi thời gian.
H.K.M
Tóm Lượt
Mở đầu
Giai đoạn I Hưng thịnh (1920 – 1942)
Trường
làng - Học vỡ ḷng – Bà ngoại bổ thuốc Bắc
tại Thốt Nốt làm thuốc tể. Gánh hát bội pha cải lương.
Tát đ́a, làm mắm. Ăn
học Long Xuyên – Châu Đốc (nhà in cậu Tám). Treo xoài –
Đám giổ - Vai tṛ 3 cậu: Cậu Ba, Cậu Bảy, Cậu
Tám.
Giai đoạn II Biến đổi (1942 -
`1984)
Phật
giáo Ḥa Hảo. Kháng chiến chống Pháp.
Vào chiến khu: Anh
Sáu Bé, Chị Năm Quang. Du học: Măng, Cầu xuất dương
đi
Giai đoạn III Phục hưng hay tan ră? (năm 2000 về sau)
Sự
h́nh thành đại gia đ́nh họ Nguyễn trong giai
đoạn mới.
Tổng kết t́nh
trạng các gia đ́nh cá nhân:
Chi nhánh 1
1)
Gia đ́nh
anh chị Sáu Bé (Dương Văn Liêm - Nguyễn Thị
Cúc)
2)
Gia đ́nh
chị Hai (Nguyễn Thị Điệt – Đoàn Phú Văn)
3)
Gia đ́nh
anh chị Ba (Nguyễn Thị Tần tự Hố - Nguyễn
Văn Thín)
Chi nhánh 2
4)
Gia đ́nh
anh chị Tư (Nguyễn Thiện Cầu – Lưu Thị
Điệp)
5)
Gia đ́nh
chị Năm (Nguyễn Thị Quang - Vỏ Văn Kền)
6)
Gia đ́nh
anh chị Sáu (Nguyễn Văn Điển – Kha Thị Kim
Vân)
7)
Gia đ́nh
chị Út (Nguyễn Văn Khiêu - Nguyễn Thị Tuyết
Hạnh)
Chi nhánh 3
8) Gia đ́nh Huỳnh Kim Măng - Nguyễn Thị
Ngân Kiều
Chi nhánh 4
9) Gia đ́nh chú Siếu (Lệ Ngọc Mừng
tự Siếu - Trần Thị Rép)
Chi nhánh 5
10)
Gia đ́nh
chú thím Tống (Nguyễn Văn Tống tự Lúa - Nguyễn
Thị Lệ)
11)
Gia đ́nh
chú thím Thế (Nguyễn Văn Thế - Dương Kim Thuận)
Chi nhánh 6
12)
Gia đ́nh
cô Dượng Nhă (Nguyễn Thị Mừng – Lê Thanh Nhă)
13)
Gia đ́nh
cô Dượng Trường (Nguyễn Thị Vui – Lê Chí Trường)
14)
Chú Tấn
va chú Vĩnh (Nguyễn Văn Tấn - Nguyễn Văn
Vĩnh)
Kết luận
Mở đầu
Bà Cao Thị Hiệp
mà tôi gọi là Bà Ngoại, là một người đàn bà
phi thường. Anh Tư Nguyễn Thiện Cầu
nói như vậy v́ một tay Bà đă gây
dựng nên sự nghiệp gia đ́nh họ Nguyễn ở
Vĩnh Trinh Long Xuyên.
Tôi không có kỷ niệm
về Ông Ngoại là Nguyễn Văn Tích, v́ Ông mất
sớm khi chưa có tôi. Ông để lại một
nhóm con 6 người, 3 trai 3 gái để Bà Ngoại trông
nom nuôi dạy. Lúc đó người con nhỏ nhất là cậu
Tám cở độ 5 hay 6 tuổi mà thôi, theo
lời D́ Hai kể lại.
Tôi nghe Cậu Ba (Nguyễn Kim Âu)
nói lại, Ba Ông Ngoại là ông Nguyễn Văn Tường
là người gốc miền Trung ở Quảng Ngăi. Ông vào nam lập nghiệp, dạy học, lập
gia đ́nh với Bà Lê Thị Hiến ở Vĩnh
Trinh cho đến nay hơn 160 năm.
Lúc nhỏ, tôi và anh Cầu có nghe
Cậu Ba tả phong cảnh Tỉnh Quảng Ngăi với
nhiều chi tiết mặc dầu Cậu Ba không bao giờ
có bước chân tới miền Trung. Những chi tiết
đó như những nơi có núi, sông, suối nước
nóng, ..v..v...Dĩ nhiên là Cậu Ba đă ghi nhớ lúc
Ông Ngoại kể lại hoặc lúc Cậu Ba nghe những
người Quảng Ngăi xuôi ghe bầu vào
Về sau địa
danh Vĩnh Trinh cũng có tên là Ḅ Ót tức là một tên gốc
Miên, cũng như có những tên gốc Miên khác như Gịng
Kè ở vùng lân cận.
Nói về vấn
đề tên th́ hồi nhỏ tôi có tên tục (hỗn danh)
là Quảng mà tôi không hiểu Quảng là nghĩa ǵ.
Tôi chỉ nghe người lớn gọi tôi
là Quảng Quảng, tức là tiếng chó kêu. Về sau tôi mới hiểu Quảng là tiếng
đầu của Quảng Ngăi vậy.
Tiểu sử gia
đ́nh họ Nguyễn bắt đầu từ lúc tôi
có khả năng ghi nhận những kỷ niệm cá nhân tức
là lúc tôi mồ côi mẹ rất sớm khoảng 3 hay 4 tuổi.
Tuy vậy tôi không nhớ dung nhan của mẹ ra sao. Tôi chỉ
nghe D́ Sáu nói là trong các cháu gái có cô Nguyễn Thị Hoa, con Cậu
Bảy là giống má tôi lắm. Trong gia đ́nh, con cháu giống
Ông Bà là việc tốt cũng như tôi biết cô Nguyễn
Thị Vui con Cậu Tám giống Bà Ngoại lắm.
Bây giờ tôi có vài kỷ
niệm của một đứa trẻ nhớ mẹ như
lúc mẹ đau bệnh phải đi chữa trị, lại
nhà một Bà bóng ở Rạch Chanh gần đó. Lúc bấy giờ người ḿnh chưa biết
chữa trị bằng thuốc Tây và rất tin về cách
chữa trị bằng bùa phép của Bà bÓng. Tôi
cũng nhớ đám an tang của mẹ
khi mẹ qua đời. Lúc đó nhầm mùa nước lụt
rất lớn, phải ghép 2 chiếc ghe lường lại
để đưa quan tài mẹ qua bên ruộng theo Rạch Cui, tại vị trí khu mộ hiện
nay. Như vậy mộ đất của mẹ
là ngôi mộ đầu tiên của khu mộ gia đ́nh.
Lúc đó nước ngập mênh mông, phải
dùng nhiều tấm ván chận nước mới đào
huyệt được. Tôi c̣n nhớ lúc mở cửa
mả ngôi mộ khi Ba tôi và tôi dắt một con gà đi
ṿng quanh mộ, tôi nhớ theo sau một
ông Thầy Chùa tụng kinh làm lể.
Khi lớn lên, tôi có nhiều kỷ
niệm cho thấy tôi mất mẹ và ở trong gia đ́nh
bên Ngoại lâu dài, sống chung với mấy
người con của Cậu Mợ Ba mà tôi yêu mến khắn
khít như anh chị ruột thịt.
Giai đoạn I Hưng
thịnh (1920 – 1942)
Người ta thường
nói tuổi già nhớ trước quên sau, nên những ǵ
đă xảy ra rất lâu cách nay hơn 6, 7 chục năm
th́ tôi nhớ rất rơ. Trái lại những ǵ mới
xảy ra lại hay quên, cho nên những kỹ niệm trẻ
thơ của tôi lần lượt hiện lên rơ rang trong
trí nhớ của tôi như mới xảy ra không bao lâu.
Đó là những ngày tôi đi học
vỡ ḷng tại trường làng với Chị Ba (Nguyễn
Thị Tân) trong một dăy nhà của Đ́nh Vĩnh Trinh
được gọi là “nhà việc” của Hương-Chức
hội tề. Thầy giáo là Ba của anh Hai Thừa, ông là
người trí thức trong làng, có chân trong ban hội-tề
nên rất có uy-tín.
Ba tôi ở Cái-Đầu
thỉnh thoảng qua thăm tôi, Ba kêu tôi và chị Ba đem
tập ra xem. Ba xem xong nói chị Ba là con gái mà học
giỏi hơn con trai về các bài làm công-nghệ, cắt giấy
màu dán h́nh của chị Ba đều lớn điểm hơn
tôi.
Một kỷ niệm
trong gia đ́nh mà sự quan trọng đứng hàng đầu
là công việc làm thuốc tể của Bà Ngoại.
Thỉnh thoảng Bà Ngoại phải đi Thốt
Nốt để bổ thuốc. Đi bằng xuồng
do tôi và chị Ba bơi. Lúc đó tôi và chị Ba mới có 6
hoặc 7 tuổi ǵ đó, tôi bơi lái, chị Ba bơi
mũi, bơi đi bơi về khá xa, phải mất hơn
một buổi.
Khi bổ thuốc xong tại tiệm
thuốc Bắc người Tàu quen tại Thốt Nốt,
bốc theo toa gia-truyền, danh tiếng rất hay của
gia đ́nh, th́ Bà Ngoại xuống xuồng kêu bơi về,
không được ăn hàng bánh ǵ hết.
Bơi về, có khi bơi nước
ngược, chậm hơn nên rất mỏi tay. Chị Ba bơi trước “cà rệt cà
tan” lấy lệ, tôi bơi sau không nghỉ tay
được. Thấy Chị Ba gát dầm
nghĩ bơi, tôi sanh nạnh cũng làm như vậy.
Nước ngược, xuồng lủi vô bụi
tre bên bờ sông, Bà Ngoại thấy vậy không rầy la
mà Bà Ngoại chỉ cười thôi. Bà Ngoại nhỏ
nhẹ nói, gần tới nhà rồi con, ráng bơi them một
hơi nũa là nước dâng lớn. Rồi
chúng tôi cũng bơi về tới nhà.
Công việc làm thuốc
tể ở nhà rất bận rộn, phải động
viên hết cả nhà cùng làm. Trước hết là phải
tán thuốc thành bột thật mịn, trong một cái bàn
tán bằng sắt, h́nh giống như một chiếc ghe lường
nhỏ và một cái bánh xe cũng bằng
sắt, dẹp và rất lớn. Khi tán th́ một người
2 chân đứng lên cốt bánh xe, 2 tay nắm
chặt vào song sắt, đạp tới đạp lui bánh
xe trong ḷng bàn tán, tiếng kêu ran răn.
Khi tán xong, đem thuốc
ra cho mật ong vào nhồi nhuyễn và bắt đầu
viên tṛn. Vui nhất là khi mọi người
xúm lại ṿ viên thuốc tể.
Anh Tư Cầu lúc đó mới
độ 4 tuổi mà cũng tham gia, công việc của anh
là phải tiểu vô một vị thuốc làm bằng cỏ
cú phơi khô, xấy, hạ thổ và rưới nước
tiểu của con trai nhỏ vào trước khi để
vô bàn tán.
Thuốc tể làm có 2 loại:
thuốc tể phong và thuốc tể bổ. Thuốc
bán rất chạy, người trong làng thường đến
mua v́ thuốc rất công hiệu.
Kỷ niệm này gợi
lên h́nh ảnh một gia đ́nh vui nhộn và đoàn kết
dưới sự điều khiển hửu hiệu của
Bà Ngoại.
Gánh
hát bội của chúng tôi.
Nhóm trẻ nhỏ
chúng tôi sống một cách rất yên vui, chúng tôi có một
thế giới riêng. Thế giới đó là một
cái lẳm lúa đồ sộ của gia đ́nh, sườn
gỗ, cột to, mái ngói, ở giữa có một bồ lúa
đầy ấp gần tới nóc, chứa được
hai ngàn giạ lúa, mỗi giạ 40 lít.
Chúng tôi thật sự chỉ có 3
que: chị Ba, anh Tư và tôi. Nhưng chúng tôi
qui tụ được thêm 2 que nữa ở lối xóm là
anh Ba Xinh và chị Ánh (em gái của anh Tư Hư và anh Năm
Bân). Thế là được 5 người, đủ
số để lập một gánh hát lớn và gánh hát của
chúng tôi là một gánh hát tối tân, hát bội pha
cải lương.
Chúng tôi diễn tuồng trên một
cái chơng cây, lấy mùng mền làm màn, lấy bánh lái ghe vẽ
hoa màu làm sơn thủy và chúng tôi mạnh ai nấy chọn
tuồng của ḿnh, mang râu, vẽ mặt, đội măo, mạnh
ai nấy hát rất là sôi nổi.
Thông thường chị Ba
đóng vai tṛ đào, tôi vai tướng gạnh, anh Ba Xinh
trong vai vua c̣n anh Tư Cầu th́ làm binh chạy hiệu v́
anh chưa biết hát.
Bây giờ tôi c̣n nhớ câu nói lối
của anh Ba Xinh trong vai vua Đường đại khái
như sau: “non Tây Kỳ phụng gáy, Vườn Thượng
Uyễn hạc reo, noi Tuấn Nghiêu đức sáng hằng theo, c̣n e Kiệt Trụ gương kia thường
tránh”. Xong rồi Anh truyền trước thềm
bày tiệc th́ bá quan đều hả hê.
Gánh hát của chúng
tôi có một khán giả người lớn là Cậu Bảy
(Nguyễn Văn Tương). Cậu
đến xem hát và hỏi chúng tôi có đặt tên gánh hát chưa?
Chúng tôi nói chưa, Cậu bèn đặt cho một
cái tên rất kêu là “gánh ở dơ ban”.
Một kỷ niệm
khác nữa là những ngày tát đ́a làm mắm rất
bận rộn. Thường mỗi năm vào mùa khô,
trước hoặc sau Tết, Bà Ngoại chuẩn bị
ghe lớn, chở đầy gào, giỗ và nhân công chèo lên
phía ngă tư bờ ao Kinh Xáng, vùng ruộng nhà, nơi
trũng thấp có nhiều đầm đ́a, đặc biệt
là đ́a dài, có rất nhiều cá.
“Đ́a dài” rộng
lớn phải đặt 2 miệng gào, tát một ngày một
đêm mới cạn. Công việc lúc
đầu có phần chán, nhưng khi đ́a gần cạn,
cá gom lại, quậy đục nước thấy ham mới
tát nhanh để bắt cá.
Có lần Bà Ngoại cho chị Ba
và tôi đi theo tát đ́a, chúng tôi xách giỏ
theo đường nước, ngọn gào để lượm
cá. Chúng tôi gom được cả giỏ cá sặc rằn,
con nào cũng lớn bằng bàn tay thật
là ham.
Nhưng bắt cá thật
sự là khi nào đ́a đă cạn nước. Số
lượng cá đem lên rất lớn, phải chở bằng
xe ḅ ra tận bờ Kinh, nơi ghe đậu,
đổ xuống đầy ghe. Cá bắt
được gồm có cá lóc, cá trê, cá rô mề và cá sặc
rằn, đầy khẩm ghe khi đem về.
Về đến
nhà, Bà Ngoại động viên đàn bà con gái lối xóm rất
đông, xúm lại làm cá rất vui, kéo dài tới ban đêm.
Mỗi lần làm như vậy, cả xóm
đều có phần cá của ḿnh để ăn. Mỗi
năm làm được vài lần như vậy th́ có thể
sản xuất được cả chục mái dầm mắm
và nước mắm, chứa dưới một bên nhà bếp
để ăn cả năm. Đó là chưa kể loại cá sặc, cá lóc xẽ
khô rất nhiều. Tôi nhớ Bà Ngoại
rất ưa loại “khô bũng cá sặc”, loại khô này
không mặn lắm và đặc biệt rất ngon.
Lúc đó miệt vườn ruộng
ở đây không có chợ búa ǵ, trong nhà phải trữ mắm
ăn cả năm. Tôi nhớ món dưa
mắm nấu canh là món ăn đặc
biệt của Cậu Bảy nấu rất ngon, ai cũng
thích nhưng phải hạn chế v́ không có nhiều. Cậu Bảy ra tiêu chuẩn là mỗi người
chỉ được húp canh bằng muỗng để thưởng
thức chớ không được chan cơm. Nếu không hạn chế th́ không có đủ
để ăn.
Mỗi buổi sáng trước bữa
ăn, tôi thấy mợ Ba xách quăo đi một ṿng trước
sân, sau nhà đem vô đầy quăo rau tươi, nào là đọt
ḅ ngót, đọt mồng tơi hoặc đọt cóc, rau
càng cua, cải trời,v.v. có khi đem vô
măng cầu chin cây nữa. Bao nhiêu đó đủ để
làm món ăn với mắm rất ngon miệng.
Tôi c̣n nhớ có lần anh Cầu
và tôi được đi nghỉ hè tại nhà D́ Dượng
Hai ở Kinh Xáng Thốt Nốt. Nơi đây là một
ngôi nhà ngói lẽ loi trên bờ kinh, ở giữa ruộng
mênh mông, chung quanh nhà có bờ chuối bao bọc.
D́ Hai về Vĩnh
Trinh thăm nhà, rước tôi và anh Cầu đi Thốt Nốt
nghĩ hè. Chúng tôi cùng đi trên một chiếc xuồng
nhỏ, theo kinh Bà Chiêu, bơi xuyên qua một
vùng ruộng vắng vẽ. Kinh Bà Chiêu có
đoạn dầy đặt bông lục b́nh, bít hết lối
đi, phải rẽ một đường nước
xuyên qua rất khó khăn.
Tới nhà D́ Dượng Hai, chúng
tôi có một người bạn cùng lứa tuổi là anh Sáu
Bé (Dương Văn Liêm) con của D́ Dượng. Ở
đây chúng tôi quanh quẫn ở trong nhà, mỗi ngày, bắt
chim se sẽ con để nuôi, hoặc ra sân th́ có bàn ông
Thiên, chung quanh có trồng bong móng tay.
Kỷ niệm đáng nhớ ở
đó là khi D́ Hai đăi chúng tôi một bữa tiệc bánh
tằm, bánh xếp thật ngon, ăn
quên thôi. Bánh xếp th́ có bánh mặn bánh ngọt, bánh tằm
th́ ṿ tay, cọng to như đũa tre, khi ăn cho nước
cốt dừa bồng con vào, chỉ có vậy thôi mà về
sau không khi nào tôi ăn bánh tằm ngon bằng dịp này.
Chúng tôi ở nhà D́ Dượng
Hai mấy tuần lể mà không thấy chán, rồi D́ Hai
cũng đưa chúng tôi về Ḅ Ót (Vĩnh Trinh).
Chuyến này đi bằng ghe tam
bản có mui và có anh Sáu Bé đi theo. Ư của
D́ Hai là muốn cho anh Sáu Bé ở Vĩnh Trinh học trường
làng với chúng tôi, nhưng lúc D́ Hai sửa soạn đi về
Thốt Nốt th́ không thấy anh Sáu Bé đâu nữa. Chừng
t́m khắp nơi mới thấy anh Sáu Bé trốn dưới
sạp ghe để theo về Thốt Nốt.
Cậu Bảy
thấy vậy nói lớn lên kêu đem lại một ấm
nước sôi, đến chế xuống sạp ghe để
anh Sáu chui ra và bị bắt ở lại. Nhưng việc đó không thành và anh Sáu không ở
lại Vĩnh Trinh.
Tôi lớn lên hạnh phúc trong cái
nôi ấm cúng gia
đ́nh cho đến lúc phải đi học xa ở Long
Xuyên. Ba tôi cho tôi ở trọ nhà một người bà con ở
Cải Sơn, học tiểu học ở Tàm Bót cách đó
không xa. Tôi ở đó đi học 2 năm, sống cuộc
đời lam lũ của trẻ con,
thi bằng tiểu học xong và được đi Châu
Đốc ở nhà in cậu Tám (Nguyễn Văn Khương)
để tiếp tục học tiểu học.
Ở Châu Đốc, cậu
Tám vừa mới lập nhà in năm 1929, và khi tôi lên
đó th́ gặp lại bộ 3 trở lại là anh Sáu Bé,
anh Tư Cầu và tôi.
Tôi tiếp tục học
tiểu học, lớp nh́ năm thứ nhất (cours moyen
lère année) ở đó 4 năm cho đến hết tiểu
học. Chúng tôi có thêm một người bạn trai nữa
là chú Hai Quư (Nguyễn Văn Phát) con cậu Hai Quyễn, người
trong đại gia đ́nh ở Vĩnh Trinh.
Chúng tôi hợp lại thành một
lũ 4 đứa tiểu quỹ lém lỉnh, khó dạy, ở
chung với vài người thợ nhà in, tất cả
đều ồn ào, khó chịu thế mà cậu Tám đă
dung túng được, thật đáng nễ. Lúc đó cậu
Tám c̣n độc thân, không nghiêm khắc lắm, nhưng có
khi cậu răng dạy chúng tôi bằng những trận
đ̣n đích đáng.
Bây giờ tôi nhớ lại, thành
kính ghi ơn cậu Tám đă đùm bọc chúng tôi đi học
xa nhà, trường tỉnh Châu Đốc. Anh Cầu
cũng công nhận cậu Tám là thành phần tối tân của
gia đ́nh họ Nguyễn, người có công “phá lũy
tre xanh” đă rào
bó những gia đ́nh thu cựu trong sự thất học,
để mỡ đường cho con cháu lập thân.
Tôi có rất nhiều kỷ niệm
trong 4 năm ở nhà in cậu Tám, đại khái là con
đường núi dài 4 cây số chạy dọc bờ
kinh, từ chợ đến núi Sam; mùa khô nước cạn,
chúng tôi lội kinh ṃ cá rô, đi ruộng bắt dế, mùa
nước cỏ màu xanh, chúng tôi vào tum đâm cá nhái, thật
là thích thú.
Con đường núi Sam chúng tôi
thuộc ḷng. Ngày chúa nhật, chúng tôi rong bộ, bẻ me
keo; đi đến chân Miếu Bà, leo
lên đỉnh núi nh́n 4 phương, ruộng phẳng mờ
mịt, bao la thật là vĩ đại.
Dù sao chúng tôi cũng xa nhà cho nên
trông cho mau hết năm học, đến ngày 14 juillet xem
lễ xong, hôm sau chúng tôi về Vĩnh Trinh nơi tổ ấm.
Năm nào mợ Ba cũng trông anh Cầu và tối
về và mặc dầu mùa xoài đă quá, nhưng mợ Ba
không hái hết trái những cây xoài quanh nhà. Mợ Ba ra lệnh treo xoài trên cây chờ chúng
tôi về, dù cho xoài thanh ca đen đă chín cây rụng khá nhiều,
nhưng vẫn c̣n một phần bẻ xuống đem vú
că căn nhà.
Không biết anh Cầu c̣n nhớ
hay không, có một lần chúng tôi cũng leo
lên cây hái xoài, anh leo lên cao, hụt tay té xuống, khi rơi
ngang giỏ xoài treo lũng lẳng, anh quơ tay nắm rỗ,
nặng quá rỗ cũng rớt luôn. May thay người bẽ
xoài nhanh tay vớ anh Cầu nắm lại
được. Hú hồn, chúng tôi xanh mày mặt, xuưt chút nữa
có tai nạn lớn.
Chúng tôi ưa xoài lắm, mỗi
lần ăn chúng tôi ngồi trên vơng, để một cái
thau kế bên để bỏ vơ và hột xoài, ngồi
ăn no mới thôi, ngừng buông dao đứng dậy …
không nổi.
Một dịp khác rất
long trọng và đông đảo trong gia đ́nh là ngày giổ
lớn. Đó là ngày cúng cơm hàng năm, không những
trong phạm vi giới hạn gia đ́nh
mà c̣n một dịp tụ hợp rất đông người,
bà con ở trong làng đến dự.
Ngày giổ được chuẩn bị trước
khá lâu. Phía nữ có D́ Mợ và các chị
gói bánh, gói nem. Phía nam, chúng tôi lo lau chùi bàn thờ,
đánh bong lư đèn sáng chói.
Ngày giổ, bà con gần đến
trước, bà con xa và người tai mắt
trong làng đến sau. Khi mọi người tề tựu
đông đủ và thức ăn đă bầy đầy
3 bàn thờ th́ Bà Ngoại và Cậu Ba bắt đầu lễ
cúng, lên đèn, thấp nhang, khấn vái rất uy nghi tôn
kính. Kế đó là lễ lạy Ông Bà: người lớn
lạy trước, D́ Mợ ăn mặt
chỉnh tề lạy sau, sau cùng là sấp nhỏ, chúng tôi
phải đứng đợi tới phiên ḿnh. Tất cả đều tham dự nghiêm chỉnh
trên một bầu không khí trang nghiêm của tục lệ
thờ cúng Ông Bà. Việc đó đă ghi một ấn
tượng mạnh vào tâm tư của tôi, và đó cũng
là sợi dây nối tiếp của nhiều thế hệ
gia đ́nh.
Sau cùng là tiệc
ăn. Các món ăn thật hấp dẫn được
dọn trên 2 bộ ngựa một bên, và bên kia
là các bàn tṛn có ghế ngồi dành cho khách. Sau đó mọi
người đều được mời nhập tiệc
theo ngôi thứ rất chu đáo.
Tôi để ư có nhiều
thứ rượu được mở nút, trong đó có rượu
chat đỏ, rượu công xi (công ty) hoặc rượu
đế chớ không có la de. Măi về
sau mấy chục năm tôi mới thấy người
ḿnh tiêu thụ la de nước đá và rượu mạnh
như Martel và Perrier.
“Rượu vào và lời ra”, việc
ăn uống náo nhiệt diễn ra rất
vui vẽ. Câu tṛ chuyện cũng sôi nổi, rặm
đám nhứt là khi có giọng nói của cậu Ba Tuân,
Ba của chị Hai Phụng.
Nhà cậu Ba Tuân ở trong rạch
nhỏ, cậu phải cởi trâu băng ruộng ra
đây ăn giỗ. Cậu
Ba (Ba của anh Cầu) nói là cậu Ba Tuân đa sự, nói
dông dài. Cậu Ba Tuân không thua, nói nữa
không dứt.
Thế rồi mọi
việc đều kết luận và ngày giỗ gia đ́nh
chấm dứt tốt đẹp.
Sau đây tôi nói về
vai tṛ của 3 người cậu.
Cậu Ba, cậu Bảy và cậu
Tám trong sự sinh hoạt ḥa thuận của gia đ́nh, dưới
sự điều hành nhẹ nhàng của Bà Ngoại.
Cậu Ba (Nguyễn
Kim Âu tự Mân) là trưởng nam của Ông Bà Ngoại
nên có địa vị cao hơn hết sau Bà Ngoại.
Cậu lo việc điều hành gia đ́nh, tiếp tay Bà Ngoại trong việc trưng thu lúa ruộng,
lo việc thờ cúng Ông Bà và giao tiếp với bên ngoài. Cậu là người tôi kính trọng và nể sợ
hơn hết v́ cậu rất nghiêm. Măi về sau tôi mới
hiểu được cậu là người rất thương
mến con cháu.
Cậu Bảy (Nguyễn
Kim Tương) là người cậu bậc Cha Mẹ
mà tôi thấy gần gũi hơn hết.
Cậu rất vui tính và có bản chất khôi
hài hiếm có. Cậu là người không
có nhiệm vụ ǵ rơ rệt trong gia đ́nh nên cậu có phần
nào phóng khoáng. Tôi nghe người ta khen cậu là người
thông minh xuất chúng v́ có một lần trong nhà đặt
mua một cái đồng hồ treo hiệu
Cậu tám (Nguyễn
Văn Khương) tôi có nói cậu Tám là người trí
thức tân tiến của gia đ́nh. Cậu ở xa
nhà và có công lớn đem một đám con cháu từ vùng quê
lên tỉnh thành ở nhà in Cậu tại Châu Đốc
để ăn học lúc cậu c̣n
độc thân và đến khi cậu lập gia đ́nh rồi
c̣n nuôi đợt anh Sáu Điễn và anh Út Khiêu nữa.
Kết luận giai đoạn
I
Bây giờ tôi nhận thấy là
thời kỳ hưng thịnh nhứt của gia đ́nh
thuộc những năm trước 1937, lúc Bà Ngoại
c̣n sanh tiền. Trong thời đó, khắp nơi
miệt đồng ruộng vùng đồng bằng sông Cửu
Long bị ảnh hưởng cuộc khủng hoảng
kinh tế của thế giới. Lúa sụt
giá chỉ c̣n hai cắc một giạ (0.20$) nên nhiều chủ
điền bị phá sản. Họ mang nợ không trả
nổi nên bị chủ nợ là chà và tịch thu ruộng để bán đấu giá.
Tôi nghe cậu Ba nói là Bà Ngoại đă
tránh khỏi trận khủng hoăng kinh tế đó nhờ sự
cần cù lao động trong gia đ́nh,
trái lại Bà Ngoại c̣n mua thêm được ruộng bán
đấu giá lúc đó.
Theo tôi tính đơn giăn th́ lúa ruộng
trung b́nh lúc đó là khoảng 2 giạ trên một công đất,
mà bồ lúa của Bà Ngoại có thể chứa được
2 ngàn giạ, tức là Bà Ngoại có
độ một ngàn công ruộng hay 100 mẫu ruộng (mỗi
mẫu 100m X 100m). Theo đó th́ Bà Ngoại không
phải là đại điền chủ mà là địa
chủ bực trang vậy.
Nên nhớ lúc đó nước
chúng ta c̣n là thuộc địa của Pháp và chúng ta ở
trong giai đoạn yên ổn làm ăn
nên chúng ta có một cuộc sống thanh b́nh đầy
đủ vậy.
Bà Ngoại mất năm 1938,
thọ 71 tuổi. Lúc đó tôi đang học tại trường
trung học Collêge de Cần Thơ. Tôi được
nghĩ phép về chịu tang Bà Ngoại. Linh
cữu Bà Ngoại quàng tại nhà trong một tuần lễ,
đó là đám tang lớn trong vùng.
Tới lúc động
quan, linh cữu Bà Ngoại đă được chuyển để
trước lẩm lúa để cúng. Đây là một
cách ghi nhớ công lao Bà Ngoại. Rồi linh cữu được đưa qua bên
ruộng, khá xa khu mộ rạch cui hiện nay.
Tôi nghĩ rằng mộ
Ông Bà Ngoại ở xa ngoài ruộng. Trên
ruộng nhà, đó là một cách cho thấy chiều rộng
của đất. Bây giờ chúng ta
thăm mộ phải đi qua một quăng xa, ngang ruộng
của người khác, đó là một sự thay đổi
của thời cuộc.
Giai
đoạn II Biến
đổi (1942 – 1984)
Khởi đầu
từ năm 1942, sau khi Bà Ngoại mất th́ thời cuộc
bắt đầu sôi động.
Đạo Phật Giáo Ḥa-Hăo
dưới sự lănh đạo của giáo chủ Huỳnh
Phú Sỗ thời sự lan rộng rất
nhanh: đó là sự nổi dậy của giai cấp nông
dân.
Người nông dân, từ nhiều
đời, làm ruộng, tay lắm chân
bùn, có tiếng là hiền từ chất phát, giờ đây
có thể trở thành cuồng tính, hiểm nguy. Họ làm chủ
vùng nông thôn các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc và Cần Thơ nên việc giao lưu
với các nơi đó trở nên khó khăn.
Phong trào Kháng chiến
chống Pháp bắt đầu từ năm 1945. Đây là phong trào bao quát, lớn rộng từ
Giặc Pháp, sau khi loạt người
Nhựt ra khỏi Đại Nam Á, đem lực lượng
quân sự trở lại áp đặt sự ổn định
nơi thành thị đông dân.
Một lực lượng có tổ
chức chỉ huy từ lâu, dưới sự lănh đạo
của Hồ Chí Minh, đă ra mặt nắm quyền
Kháng chiến và loạt các thành phần quốc gia, lập
chiến khu ở vùng nông thôn thừa dân. Trong
sự tranh chấp đảng phái, Đảng Cộng Sản
giết hại giáo chủ Huỳnh Phú Sỗ của Phật
Giáo Ḥa Hăo.
Trong sự nhiễu
nhường của thời loạn, đời sống
mong manh của những gia đ́nh địa chủ người
miền
Gia đ́nh họ Nguyễn
cũng như những gia đ́nh khác, có con cháu ăn học ít nhiều, đă phân tán mỗi
người đi mỗi ngă.
Theo thứ tự trong gia phả,
tôi nói lên trường hợp đầu tiên là anh Sáu Bé
(Đương Văn Liêm) con của D́ Hai ở Thốt
Nốt. Nhắc lại nhóm học sinh ở nhà in cậu
Tám Châu Đốc, sau khi rời trường tỉnh đă
tiếp tục đi học xa nhà ở Cần Thơ. Anh
Sáu Bé khi c̣n là học sinh đă nhập bọn với nhóm học
sinh thân Cộng ở Long Xuyên (tôi nghĩ là vậy) và anh
đă tự động vào chiến khu Cái Sắn rất sớm.
Đó là năm 1947, anh quá
giang xe chở hàng của tôi và anh bạn Lê Công Kiệt cho
người bạn là Phước thuê chở hàng đi Rạch
Giá và anh đă xuống xe tại Cái Sắn để vào chiến
khu.
Kể từ đó
tôi mất liên lạc với anh cho đến 30 tháng Tư
năm 1975, tôi mới gặp lại anh ở Sài G̣n.
Lúc đó anh ta là cán bộ của chánh quyền Cộng Sản
gởi anh từ miền Bắc vào
Người thứ
hai trong gia đ́nh là chị Năm Nguyễn Thị Quang
(con cậu Ba). Chị là người thuộc
phía Kháng chiến nhưng chị không ở trong chiến
khu. Thỉnh thoảng chị vào chiến
khu Bến Tre thăm chồng là Vơ Văn Kềm, chiến
sĩ quốc gia (tôi nghĩ là như vậy), chỉ huy trưởng
bộ đội kháng chiến. Chị ở
thành phố Long Xuyên, nuôi 2 con nhỏ là Vơ Thanh Sơn và Nguyễn
Thị Thủy. Con trai lớn là Vơ Thiên Châu th́ được
tập kết ra Bắc và được chánh quyền Bắc
nuôi dưỡng. Sau 30 tháng 04 năm 1975, cháu Châu trở về
Nam với cấp bực chuẩn úy thủy quân, công tác khá
lâu trong chánh quyền.
Chồng chị
Năm nói trên là chiến sỉ tử trận ở Bến
Tre (năm nào tôi không biết) trong trường hợp rất
mờ ám. Theo sự kẻ lại của
anh Hai (Đoàn Phú Văn) th́ sau một trận chiến thắng
quân Pháp, quân ấy đă rút lui. Chỉ
huy trưởng bộ đội là Vơ Văn Kềm hiên
ngang đứng trên bờ lũy th́ một viên đạn
vô t́nh đă hạ anh, viên đạn đó từ đâu
đến? Không ai biết được.
Trên đây là 2 trường hợp
người gia đ́nh theo kháng chiến.
Số c̣n lại là anh Cầu và tôi
là 2 người trí thức không đảng phái mà Cộng Sản
gọi là trí thức yêu nước.
Sau khi chúng tôi rời nhà in cậu
Tám xuống Cần Thơ đi học và sau đó lên Sài G̣n
ở nhà cậu Hai Tỹ tiếp tục học th́ đó
là một giai đoạn dài 6 năm mà chúng tôi xa gia đ́nh.
Việc xa gia đ́nh là đương
nhiên, khi chúng tôi lớn lên và bắt đầu bay nhảy, lăn lóc ngoài đời. Học kiến
trúc là con đường duy nhất của tôi, từ Hà
Nội lên Đà Lạt và sang Pháp không thay đổi. Tôi gặp
lại anh Cầu năm 1949 tại Paris, anh Cầu học
xong nghề in và sắp sữa về Việt Nam, tôi th́ ở
lại Pháp thêm 9 năm nữa, vừa đi làm, vừa
đi học, có đời sống gia đ́nh, măi đến
năm 1958 sau khi tôi đă tốt nghiệp Kiến Trúc Sư
và Thiết kế đô thị tại viện Đại
Học Pháp th́ tôi mới hồi hương.
Tôi về nước dưới
thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và được
bổ nhiệm vào ban Giáo Sư Trường Cao Đẳng
Kiến Trúc. Trường kiến trúc sau đổi
thành Phân Khoa Đại Học Kiến Trúc viện Đại
Học Sài G̣n.
Việc đầu
tiên của tôi là về Long Xuyên thăm gia đ́nh ở
Vĩnh Trinh sau hơn 10 năm xa cách. Kỹ
niệm đầu tiên là khi tôi gặp cậu Ba ở Voi
Đ́nh khi tôi qua cầu để về nhà. Tôi gặp cậu Ba ở đó, cậu Ba khóc, khóc
đứa con lưu lạc đă trở về gia đ́nh
sau bao nhiêu năm biến đổi.
Tôi cũng không cầm được
giọt lệ, thấy cậu Ba tôi thương quá, bây giờ
cậu Ba đă già yếu, sống im lặng trong một
canh nhà vắng vẽ, con cháu đi phân tán nhiều nơi. Hoàn cảnh thật khác xưa, chỉ c̣n lại mảnh
t́nh thương là một cái ǵ thiêng liêng bất diệt.
Nhà thờ lớn c̣n
đó nhưng trông thấy cũ kỹ hơn xưa. Lẫm lúa không c̣n nữa, chỉ c̣n lại một
nền gạch trống trơn, cảnh xưa đă thay đổi.
Tôi tiếp tục thăm D́ Dượng
Sáu, D́ Dượng sống trong một canh nhà ngói nhỏ,
bên kia với Đ́nh, nhà bằng vật
liệu c̣n lại của lẩm lúa. D́ Dượng
sống với 3 đứa cháu nội nhỏ, con của
chú Siêu.
Tôi đi Châu Đốc thăm
cậu Tám, Mợ Tám đă mất, cậu Tám ở vậy
nuôi 6 con, 4 trai và 2 gái. Cậu Tám c̣n khoẻ mạnh
và ham hoạt động lắm. Cậu
có nhiều cơ sở nuôi cá và bắt cá rất hứa hẹn.
Những ngày tôi về
Châu Đốc rất là vui, chợ Châu Đốc đông hơn
xưa nhiều, việc mua bán rất thạnh hành, náo nhiệt.
Trong giai đoạn
tới (1958 – 1975) dài 17 năm là một thời gian phong phú
nhứt trong đường đời của tôi.
Đó là thời gian tôi hành nghề lập thân, có đời
sống cá nhân ổn định và cũng là thời gian mà
tôi làm được nhiều việc có ảnh hưởng
lớn trong hướng phát triễn của gia đ́nh họ
Nguyễn.
Đường đời của
tôi có 2 việc quan trọng: đó là hành nghề và giảng
dạy.
Về phương diện hành
nghề th́ 17 năm hoạt động không phải là một
thời gian trung b́nh của một nghề mà đó là một
thời gian thu ngắn. Vấn đề
nghề nghiệp th́ tôi có thể tự hào là không thua kém ai
v́ trong 3 cuộc thi kiến trúc tổ chức lúc đó mà tôi
dự thi 2 cuộc th́ tôi trúng tuyễn hạng nhất cả
2 lần; đó là 2 cuộc thi vẽ đồ án chợ
Bến Thành do ṭa Đô Chánh tổ chức và cuộc thi
đồ án Ngân Hàng Khuếch trương kỷ nghệ
do Bộ công chánh tổ chức.
Vấn đề chợ
Bến Thành th́ không có người đầu tư thực
hiện v́ thời cuộc bấp bênh, c̣n vấn đề
ngân hàng khuếch trương kỷ nghệ th́ đă được
khởi công cả năm trước 1975.
Việc hành nghề
của tôi, khi kiểm điểm lại th́ không phải là
một sự thành công tốt đẹp. Về vấn
đề tay nghề th́ tôi không thua kém
ai, nhưng đối với vấn đề kinh doanh và sự
hợp tác với đồng nghiệp th́ tôi rất kém và
luôn bị thiệt tḥi về quyền lợi. Đối với tôi, những vấn đề
đó không quan trọng nhưng đó là một khuyết
điểm của nghề nghiệp.
Về phương diện giảng
dạy ở trường Đại Học Kiến
Trúc th́ tôi giữ chức vụ Phó Khoa Trưỡng Đại
Học 2 nhiệm kỳ cho đến năm 1975. Sau khi Cộng
Sản nắm chánh quyền th́ tôi được giữ lại
trong chức vụ chủ nhiệm Bộ Môn Quy Hoạch cho
đến khi tôi về hưu và xuất cảnh sang Bỉ.
Công việc giảng dạy của
tôi có thể nói là trong sáng v́ đó không ngoài sự tận
tâm đào tạo của tôi đối với các thế hệ
kiến trúc sư trong tương lai.
Trong lúc tôi đi định cư
tại Bỉ, tôi có dịp du lịch sang Hoa Kỳ và gặp
lại rất nhiều môn đệ của tôi tại nhiều
nơi. Chúng nó tiếp đăi tôi hết sức chu đáo, một ḷng kính thầy cũ
đúng với truyền thống tốt đẹp “tôn sư
trọng đạo” của Việt
Trong những năm
1960, sau khi tôi hồi hương là thời gian mà gia
đ́nh họ Nguyễn gặp nhiều sự biến
đổi nội bộ rất quan trọng.
Có phải một vận may hay
không mà anh Hai Đoàn Phú Văn (con rể cậu Ba) nhờ
một người bà con có địa vị quan trọng
trong Phật Giáo Ḥa-Hăo can thiệp để những người
nông dân trong đạo trả đất ruộng lại
cho gia đ́nh cậu Ba. Nhờ vậy mà anh chị
Hai mới trở về ở nơi nhà cũ ở Vĩnh
Trinh. Anh tiếp thu đất,
đào ao, lên bờ, làm ruộng trở lại rất chuyên
cần v́ đó là sở trường của anh. Đó là một
tia sáng của sự hồi sinh gia
đ́nh họ Nguyễn sau những biến cố của
thời cuộc.
Sự sống
đă trở lại, vui tươi nơi chốn cũ.
Tôi nhớ là có mời một nhóm bạn thân về
quê chơi trong mùa nước đỗ. Nhóm đó gồm anh chị Mạnh, anh chị
Thái, anh chị Tuyến và anh chị Tâm, tất cả đều
là bạn thân của anh Cầu và tôi.
Đêm đó anh chị Thái và tôi
cùng bà xă nghỉ tại Vĩnh Trinh, những người
khác tạm trú nơi nhà quen tại Long Xuyên, anh chị Cầu
bận việc không về được.
Trong lúc yên nghĩ,
anh Hai ở ruộng về, anh cho biết là trong hệ thống
rọ anh đặt nơi Rạch Cui, cá Linh về rất
nhiều. Anh Thái nghe nói sợ quá, nhơm dậy
hỏi anh Hai có phải Việt Cộng về nhiều hay
không? (anh Thái là người Bắc
di cư nên sợ Việt cộng lắm). Chừng anh biết
đây là nơi cá Linh chạy rọ chớ không phải nói
Cộng Sản anh mới an tâm.
Sáng hôm sau chúng tôi trở
lên Long Xuyên dự một bữa tiệc tôm càng nướng
tại vườn Ông Hỉ ở ngoại ô thành phố
(ông Hỉ là thầu khoáng, cho tôi mượn nhà vườn
của ông).
Tôm càng th́ có chị Hai, chị
Năm Quang và bà xă tôi mua mấy thùng đầy (mỗi thùng
20 lít) tại miệng đáy sông Hậu Giang, tôm càng nướng
lữa than vàng cháy thơm ngon, ăn với
rau thơm và bún. Bữa tiệc thật là vui
vẽ, náo nhiệt và độc đáo.
Những kỹ niệm
vui như vậy không có bao nhiêu. Bây giờ
trở lại thực tế. Công việc làm ăn của anh Hai bắt đầu
mở rộng. Anh đào ao, đấp bờ,
mua máy cày, trữ phân và làm rẫy trên đất nhà. Kết quả ra sao chưa thấy, nhưng gia
đ́nh cậu Ba có phản ứng mạnh.
Các anh chị con cậu Ba lấy lư do là anh Hai làm ăn quá
trớn, vượt quá khả năng của ḿnh nên gây áp lực,
buộc anh Hai phải ngưng việc và
giao ruộng lại cho gia đ́nh. Chị Hai cũng
về phía gia đ́nh và gây gổ với anh Hai. Tất cả những việc đó đều diễn
ra dưới sự giám định ở trên của cậu
Ba.
Đây là một vấn đề
nội bộ của gia đ́nh trưởng tộc, nhưng
thử nghĩ nếu anh Hai không thu hồi
đất ruộng trong tay Ḥa-Hăo th́ gia đ́nh lấy ǵ
để buộc tội anh Hai? Biện pháp này có quá khắt
khe đối với anh Hai hay không?
Về sau con cháu trong gia đ́nh gọi
đó là một cuộc đảo chánh, nó làm cho anh Hai
thất vọng suốt đời và sự bất ḥa giữa
anh chị Hai cho đến chết cũng không hàn gắn
được.
Một biến chuyển
quan trọng khác trong gia đ́nh là việc anh Sáu Điển
về Vĩnh Trinh ở trong phủ thờ vào năm
1970. Đó là cái quyền của gia đ́nh trưởng
tộc khi gia đ́nh chuyển quyền thừa kế hương
quả từ người con trai này qua người con trai
khác. Như vậy việc hưởng quê lợi
đất hương hỏa đề lo việc thờ
cúng Ông Bà từ anh Cầu chuyển qua anh Sáu Điễn là
việc tốt, hợp lẽ phải. Anh Sáu đă
đem lại sự yên ổn và tồn tại gia đ́nh
cho đến ngày 30 thang 4 năm 1975 và sau nữa cho đến
bây giờ, năm 2000.
Mọi việc đều trôi
qua, ruộng đất thu hồi trong
tay Ḥa Hăo mà gia đ́nh buộc anh Hai ngưng canh tác th́ gia
đ́nh đem giao lại cho tá điền cũ đề
lấy lúa ruộng.
Kế đó là luật
“người cày có ruộng” của chánh quyền Nguyễn
Văn Thiệu đă chánh thức thừa nhận chủ
quyền của nông dân canh tác. Như vậy th́ ruộng
đất mà gia đ́nh đă lấy lại đă mất
đi một lần nữa qua tay người
khác. Cái vận may của gia đ́nh nói ở trên khi anh Hai thu hồi đất ruộng đă mất
đi thật sự.
Có thể đây là cái vận mệnh
đă an bài cho gia đ́nh họ Nguyễn, nhưng cái vận
mệnh đó đă xếp đặt việc chuyển hướng
gia đ́nh gọi là “mất đất c̣n người”
mà tôi xin tŕnh bày sau đây.
Tôi xin kể một câu nói bất
hủ của Ông Ngoại bảo với các con như sau:
“Ba không phải là người giàu có nhiều tiền của
để cho các con, nhưng ba sẽ cho các con ăn học
đến nơi đến chốn, thành tài và đó là cái
vốn cá nhân, bất khả xâm phạm hay truất hữu
được”. Và đó cũng là cái truyền
thống của xă hội Việt
Giai đoạn tiến than của
thế hệ 4 gia đ́nh trong thời gian tới, dài khoảng
15 năm (1960 – 1975) dă chuyển hướng từ gia
đ́nh địa chủ trung lưu trở thành gia
đ́nh trí thức tân tiến đúng với cái ư
nghĩa “mất đất c̣n người”.
Cái truyền thống trí thức
này bắt đầu từ cậu Tám ở Châu Đốc
(Nguyễn Văn Khương), cậu là người trí thức
tân tiến của gia đ́nh đă có công phá lũy tre xanh
đưa chúng tôi vào con đường học vấn như
đă nói.
Tôi có một kỹ niệm tốt
đẹp là khi tôi về Châu Đốc thăm cậu Tám
sau khi chú Tấn và chú Lực thi đỗ cán sự
kiến trúc, việc này làm cậu Tám rất vui và tôi
cũng vui dạ v́ tôi tự thấy ḿnh đă trả ơn
được phần nào đối với cậu Tám.
Việc nâng đỡ con cháu trong
gia đ́nh học kiến trúc là phận sự đương
nhiên của tôi, nhưng học được hay không là do
sự cố gắng cá nhân của từng người.
Tôi nhớ là trong lúc học, cháu Nguyễn
Văn Đoàn, con anh chị Ba, thường bị tôi
“cà khịa”. Tôi nói: “mày nên học luật tốt hơn v́
mày không có năng khiếu về kiến trúc”. Nhưng cháu Đoàn vẫn kiên nhẩn đeo
đuổi học kiến trúc cho tới khi tốt nghiệp.
Hơn nữa Đoàn c̣n giúp đỡ người
vợ là Đào Huệ Chi thi đậu kiến trúc sư
sau 1975.
Về sau, với sự kinh nghiệm
trong nghề nghiệp, tôi nghĩ rằng cái ư chí của
Đoàn là đúng, v́ một người kiến trúc sư
thành công không phải nhờ đơn thuần vẽ hay mà
c̣n phải có nhiều đức tính khác như xă giao chẳng
hạn. Sau 30 tháng 04 năm 1975, Đoàn làm việc
đắc lực trong sở xây dựng Thành Phố và cuối
cùng đă vượt biên thất bại. Đoàn và vợ
cùng 2 con nhỏ
đă bị nạn mất tích tại vùng biển
G̣ Công, thật đáng thương. Tôi nghĩ
là nếu Đoàn c̣n sống th́ cháu sẽ làm nên chuyện
trên đường đời.
Thiên hồi kư này có thể thiếu
sót nếu tôi không kể những kỹ niệm vui, những
cuộc du ngoạn xa gần, những cuộc tham quan danh
lam thắng cảnh của miền Nam Việt Nam mà tôi có dịp
đi chung với các thành phần lớn nhỏ trong gia
đ́nh.
Đối với những người
lớn tuổi như cậu Ba, D́ Sáu th́ tôi mời đi
nghỉ mát tại Vũng Tàu hoặc Đà Lạt. Đối
với những thành phần cùng lứa tuổi th́ tôi rủ
đi du lịch xa và nhiều ngày hơn như Rạch Giá,
Hà Tiên hoặc Phan Thiết, Nha trang chẳng hạn. Khi có nhiều trẻ em th́ chúng tôi đi tắm biển
ở Vũng Tàu hoặc Long Hải. Đi
lần nào cũng ghé Long Thành mua đồ biển, ṣ huyết,
ốc len và thịt rừng như thịt nai, thịt heo rừng,
có khi mua được sâu đuông trong bắp dừa.
Đời sống có thể nói là thoải mái
đầy đủ và vui tươi.
Tôi có kỹ niệm
khó quên là lần chúng tôi và gia đ́nh anh chị Cầu
đi du lịch một ṿng lớn Miền Trung vào dịp
Tết năm 1964. Chúng tôi lên Đà Lạt, xuống
Tháp Chàm, qua Cà Ná, Quăng Nam, Ba Ng̣i và nghĩ ở Nha Trang.
Chúng tôi đi Tuy Ḥa ăn nem, uống
nước dừa, về Bến cầu đá Nha Trang thuê
thuyền suốt ngày đi biển, ghé ḥn Chồng cùng ngư
dân ăn Tết đánh bạc thật là thích thú.
Chuyến về
chúng tôi ghé Phan Thiết ăn cơm. Lúc đó cháu Thúy c̣n nhỏ, biết đi lẵm
đẫm. Vô tiệm ăn, chúng tôi không
thấy cháu Thúy ở đó, xem lại th́ cháu đi đâu mất.
Chúng tôi tá hỏa, chia nhau đi t́m cháu Thúy. Chị Tư bù lu
bù loa, vừa khóc vừa t́m con. Cuối cùng
cháu Công t́m được Thúy, cháu đi lạc khá xa. Tất cả đều vui mừng, hú hồn, thiếu
chút nữa là họa to. Chuyến đi
này kết thúc êm đẹp.
Tôi có một nhà nghỉ mát
nhỏ trên núi lớn Vũng Tàu gần chùa hang, có tầm
nh́n ra biển, thấy băi trước, băi sau rất đẹp.
Vài 2 tuần chúng tôi ra nghỉ một lần
xă hơi, tắm biển, câu cá.
Tô nhớ năm 1968,
Tết Mậu Thân, Việt Cộng tổng tấn
công, tôi bị kẹt ở đó 3 ngày. Đó
cũng là ngày đáng nhớ trong gia đ́nh v́ ngày rằm
tháng Giêng cậu Ba mất ở Vĩnh Trinh, ấy là
ngày giổ cậu Ba.
Tôi rất thích câu
cá, đây là sở thích bẩm sinh v́ lúc c̣n nhỏ tôi được
tiếng là uốn lưỡi câu rất khéo. Sở thích đó trở thành một giải trí
trong đời tôi và nhờ đó mà tôi thoát khỏi đi học
tập căi tạo sau 30 thang 04 năm 1975.
Số là sau khi Việt Cộng cưỡng
chiếm miền Nam, với chức vụ Phó Khoa Trường Đại Học,
tôi bị Việt Cộng bắt tập trung đi học
tập căi tạo. Nói là học tập căi tạo,
nhưng thật sự là đi vào trại tù. Tôi được giấy gọi tập trung nhưng
v́ mê đi câu nên tôi đợi đến ngày chót mới
đi tŕnh diện. Tôi bị tập trung
tại Trường nữ trung học Gia Long một
đêm, hôm sau có lịnh cho về v́ thiếu trại tù và phải
chờ giấy gọi kỳ tới.
Trong lúc chờ lịnh
mới, có giáo sư Nguyễn Văn Kiết, bộ trưởng
giáo dục của chánh phủ Giải Phóng miền
Ông Nguyễn
Văn Kiết ra lịnh tha hết Khoa Trưởng và
Phó Khoa Trường Đại Học khỏi phải
đi học tập căi tạo. Về
sau tôi biết được những Khoa Trưởng
đă tŕnh diện các đợt trước đều bị
đi học tập căi tạo. Vậy
có phải nhờ thú đi câu mà tôi tránh khỏi trại tù
hay không?
Kỹ niệm đi
câu tôi có nhiều, nhưng tôi xin kể thêm một chuyện
có liên quan với gia đ́nh như sau. Năm đó tôi
có về ăn Tết ở Long Xuyên, ở nhà anh chị Hai
ở đường Cái Sơn. Ngày mồng 2 tôi ra nghề,
xách cần câu xuống bờ sông Hậu, nơi nhà máy xay lúa
của người bạn là Út Phương tôi dựt đưọc
một con cá bông lau rất lớn, dài một thước,
phải vận chuyển khá lâu anh Hai mới xúc vào vợt được.
Đêm đó chị Hai nấu một nồi cháo cá lớn,
cả nhà ăn hả hê. Tôi nhớ là cậu
Tám chung vui nữa.
Đời sống
vàng son đó chấm dứt ngày 30
tháng 4 năm 1975. Đây là ngày đen
tối của lịch sử Việt
Tôi nhớ một ngày trước
khi quân đội Cộng Sản tràn vào, tôi và anh Cầu ngồi
trước sân nhà tôi ở làng Đại Học Thủ Đức,
chúng tôi ưu tư, lo lắng, nh́n ra xa lộ vắng hoe,
không người qua lại, chúng tôi than thở: “quang cảnh
c̣n đó không thay đổi, chỉ có con người sẽ
đổi thay”.
Phản ứng tức
khắc của dân chúng là di tản. Nhiều làn sóng
người ồ ạt, chen lấn, di
tản, nhưng không phải ai cũng có phương tiện
di tản. Phản ứng kế tiếp là vượt
biên. Hàng triệu người không muốn sống
dưới chế độ Cộng Sản, liều chết
vượt biên để t́m tự do.
Sau đây tôi xin tŕnh
bày những vụ vượt biên trong gia đ́nh họ Nguyễn.
Những vụ vượt biên này có 3 loại: một là vượt
biên tốt số, hai là vượt biên thất bại, ba là
vượt biên đau thương. Cả nhà 3 loại đều
có đủ trong gia đ́nh vói kết quả như sau:
A
- Vượt biên tốt số là đi tới nơi an toàn và định cư tại một nước
tự do
1) Gia đ́nh chú Năm Lực
(Nguyễn Văn Lực, Lê Hồng Hạnh) con cậu Tám
Châu Đốc. Chú Thím và 3 con nhỏ đi suông sẽ và hiện
nay an cư lạc nghiệp tại Seatle tiểu bang WA Hoa Kỳ.
2) Gia đ́nh cô Ba Vui (Nguyễn
Thị Vui, Lê Chí Trường) con rể cậu Tám Châu Đốc.
Gia đ́nh này có sự bất ḥa với chế độ mới
nên bỏ xứ ra đi như sau: Dượng Ba Trường
là Cán Sự Điện Lực, Trưởng Ty Điện
ở Mỹ Tho. Sau
Tôi có nói cô Vui là
người giống Bà Ngoại, cô có tinh thần gia đ́nh
sâu đậm như cậu Tám. Cô giúp bà con ổn định
đời sống tại đó. Nhưng định
mệnh trớ trêu khiến cô mất đi trong lúc c̣n trẻ.
Đó là một sự mất mát to lớn của
gia đ́nh họ Nguyễn.
3) Gia đ́nh cháu Nguyễn Thiện
Chiến (con anh chị Cầu) vợ là Vơ Thị Mai cùng
2 con nhỏ vượt biên an toàn. Cháu là
người có số đỏ, luôn gặp may mắn trên đường
đời. Cháu định cư và an cư
lạc nghiệp tại
4) Gia đ́nh cháu Nguyễn Thị
Phương (con anh chị Ba Nguyễn Thị Tàn) cùng chồng
là Trần Quang Trung và 2 con vượt biên b́nh yên đến
nơi đến chốn. Các cháu an cư
lạc nghiệp tại
B
- Vượt biên thất bại
5) Chuyến vượt biên này của
2 anh em là gia đ́nh Đoàn Văn Quế - Huỳnh
Thị Kim với 4 con nhỏ và gia đ́nh Đoàn Phát
Minh - Nguyễn Thị Kim Xuyến với một
con nhỏ. Thuyền các cháu ra tới hải
phận quốc tế th́ máy hỏng, thuyền trôi vào Côn Đảo
và bị bắt ở đó. Đàn bà trẻ con được
tha về, 2 cháu bị giam tại nhà tù Côn Đảo. Chú Đoàn Văn Quế gốc sĩ quan quân đội
Việt Nam Cộng Ḥa nên bị giam nhiều năm tại đó.
Cháu Đoàn Phát Minh là thường dân và được
bảo lănh nên được tha về.
Cháu Quế là người
có định mệnh đen tối. Chị
Hai mẹ cháu có nói ngày sanh cháu, có con chim cú bay đến sau
nhà kêu lên nhiều tiếng thê thảm. Đó
là điều xấu.
Mấy năm sau tôi có dịp đi
công tác quy hoạch tại Côn Đảo được phép
thăm cháu và mang cho cháu thức ăn và
thuốc uống. T́nh trạng sức khoẻ
cháu rất kém. Sau đó nhiều năm
cháu được tha về trong t́nh trạng suy yếu rất
nặng và cháu qua đời ít lâu sau đó.
Vợ cháu cùng 4 con vượt biên
lần thứ nh́ đă thành công trong lúc cháu c̣n trong tù, và đă
lập gia đ́nh khác ở tại
C
- Vượt biên đau thương
Đó là những vụ vượt
biên bị nạn cướp biển Thái Lan
hoặc bị ch́m thuyền chon vùi dưới biển sâu.
6) Gia đ́nh Nguyễn Văn
Đoàn, Đào Huệ Chi cùng 2 con nhỏ mà tôi có nói
ở trên. Các cháu bị ch́m thuyền trong trường
hợp nào không rơ và mất tích ở vùng biển G̣ Công.
7) Chú sáu Nguyễn Văn Khá
(con cậu Tám Châu Đốc) và đứa cháu trai Lê Thanh
Phong (con cô Nguyễn Thị Mừng) cùng đi với đông
người, bị cướp biển Thái Lan chận bắt,
tước đoạt hết tiền bạc nữ trang. Trước khi rút lui, bọn cướp bắt
chú một cách bất ngờ, bắn và xô chú xuống biển.
Việc đó xảy ra trước mắt cháu
Phong thật thê thảm. Phong vượt
biên thành công, đặt chân trên đất Mỹ, học hành
đỗ đạt thạc sỉ điện toán (Master
Informatique).
Đây là trường hợp đặc
biệt đáng khen, cháu c̣n nhỏ, một ḿnh lập thân và
sau bảo lănh cha mẹ và các em đoàn tụ gia đ́nh tại
Vượt biên là một
biến động to lớn đă làm chấn động
dư luận quốc tế chớ không phải là một
biến cố nhỏ địa phương của lịch
sử Việt
Hàng triệu người đă không
hề hiểm nguy, ra đi lánh nạn Cộng Sản. Bao
nhiêu người đă làm mồi cho cướp biển,
bao nhiêu người đă bị chôn vùi dưới biển
sâu, chúng ta không biết được.
Riêng gia đ́nh họ
Nguyễn, với 4 vụ vượt biên thành công, một
thất bại và hai vụ đau thương th́ chúng ta đă
trả một cái giá rất đắt.
Với sự mất mác 5 đứa
con tuổi trẻ, đầy tương lai đă bỏ ḿnh
trên biển cả, bao nhiêu đó cũng đủ để
làm sáng tỏ lương tri con người.
Giai đoạn III
Phục hưng hay tan ră?
(năm 2000
về sau)
Lịch sử gia đ́nh họ Nguyễn như gịng
nước sông Hậu, luôn luôn chảy, không khi nào ngừng.
Nhưng trong đoạn tiểu sử này tôi tạm ngưng
ở thời điểm 2000 để tổng kết t́nh
trạng các gia đ́nh cá nhân và dự đoán chiều hướng
mà gia đ́nh họ Nguyễn có thể phát triễn trong tương
lai.
Bắt
đầu từ Ông Bà Ngoại của thế hệ 1 cho đến
các cháu chít của thế hệ 6, một thời gian dài 150
năm đă đi qua. Nhân số từ 2 người bây giờ
đă gia tăng đông đảo. Nếu không
kể ông bà của thế hệ trước đă qua đời,
chúng ta là một đại gia đ́nh hiện có khoảng 270
người, lớn nhỏ đang sinh sống. Trong số này có 100 người di cư ở
hải ngoại và 170 người ở Việt
Sau
những cuộc xáo trộn rối ren của thời cuộc
và những ngày đen tối 30 tháng 4 năm 1975, có thể nói
là gia đ́nh họ Nguyễn đă vượt khỏi trận
băo tố hải hùng đó với ít nhiều sứt mẽ
và tiến lên vững mạnh, con cháu có đời sống ổn
định, an cư lạc nghiệp. Có lẽ
đó là chúng ta đă hưởng được cái phước
đức của ông bà để lại của một gia
đ́nh có tiếng hiền từ lương thiện
tại địa phương Vĩnh Trinh.
Sau
đây tôi làm bảng tổng kết về t́nh trạng các
gia đ́nh cá nhân trong khung cảnh chung của
đại gia đ́nh họ Nguyễn.
1) Theo
cấp bực trước sau của gia phả, trường
hợp đầu tiên tôi nói ở đây là gia đ́nh anh
Sáu Bé (Dương Văn Liêm, Nguyễn Thị Cúc). Tôi có nói anh là người vô chiến
khu rất sớm, tập kết ra Bắc, công tác ở Đông
Âu, trở về Nam sau 30/04/75 trong nhiệm vụ xuất
khẩu của chánh quyền Cộng Sản. Hiện giờ
anh chị ở Thành Phố Hồ Chí Minh, có hưu bỗng,
các con đều có chức vụ vững vàng trong chánh quyền.
Nhớ
lại trước khi anh chị về
Mỗi lần gặp tôi, D́ Hai khóc và hỏi chừng
nào anh Sáu về? Tôi nói c̣n không bao lâu để an ủi D́ Hai, bây giờ anh đă về sau
khi D́ Hai qua đời, không biết anh c̣n nhớ mẹ già
trông con hay không?
Gia đ́nh anh Sáu Bé v́ ở xa Vĩnh Trinh, ít khi gặp
nhau nên có đời sống riêng biệt với gia đ́nh
họ Nguyễn. Bây giờ anh về th́ gia đ́nh cũng
mừng v́ anh là người của Cách Mạng th́ có thể
chỉ dẫn bà con sống trong nề nếp của chánh
quyền. Đại khái những vụ “về
quê lập nghiệp” và “đi kinh tế mới” th́
anh có cho ư kiến. Anh đă lấy t́nh Đảng
đối xử với gia đ́nh thay v́ lấy t́nh người
đối với người. Về
sau người ta mới biết được những
quyết định về hồi hương và kinh tế
mới là những quyết định cấp thời
để đưa dân chúng Miền
Anh cũng có phần nào ảnh hưởng trong việc
anh Út Khiêu bị đi học tập cải tạo và chết
trong trại tù ở thượng du Bắc Việt mà tôi sẽ
nói sau.
Trong khung khổ của hồi kư gia đ́nh này, tôi
cố gắng kể lại một cách chân thật những
sự việc đă xảy ra để những thế hệ
sau suy xét.
2)
Gia đ́nh kế tiếp mà tôi biết
nhiều là gia đ́nh Anh Chị Hai (Nguyễn Thị
Điệt – Đoàn Phú Văn) mà tôi đă nói ở
trên Anh Chị đă qua đời nhưng con cháu Anh Chị
khá đông ở tại TP Hồ Chí Minh và Vĩnh Trinh.
Con
gái lớn của Anh Chị (Đoàn Thị Lưu)
đă lớn tuổi, sống độc thân với đứa
con gái nuôi tại đầu lộ Vĩnh Trinh. Cháu là cô giáo về hưu, sống một cách khiêm
nhượng yên ổn trong ngôi nhà nhỏ, trên lô đất
của ḿnh.
Người
con kế đó của Anh Chị Hai (Đoàn Văn Quế
- Huỳnh Thị Kim) tôi có nói trong vụ vượt
biên thất bại. Cháu là cán sự Kiến Trúc
, Trưởng Ty Kiến Thiết Hậu Nghiă. Cháu bị
động viên, nhập ngũ với cấp
bực Thiếu Úy. Nơi ở hiện nay của cháu Thọ
và bé Bảy là “đất cắm dùi” của cháu lúc cháu là quân
nhân. Cháu vượt biên thất bại, vào tù
tại Côn Đảo và đau yếu trong tù. Cháu được tha về ít lâu th́ qua đời.
Vợ con cháu đă vượt biên từ lâu.
Người con kế tiếp của Anh Chị
là Đoàn Phú Thọ, vợ là Nguyễn Hồng Nga.
Gia đ́nh cháu đông người 3 trai, 1 gái và
2 đứa cháu nội. Cháu là cán sự Kiến Trúc khóa
đầu tiên mà tôi đào tạo. Cháu có năng khiếu về
vẽ, đứng đầu lớp học và đầu
khóa cán sự tốt ngiệp (Viện Đại Học Sài
G̣n).
Con
trai lớn của cháu là Đoàn Phú Thơ. Cháu Thơ tính
t́nh mềm mỏng, dễ thương. Cháu được
xuất dương du học tại Đức, có sự đỡ
đầu của người chú là Nguyễn Thiện Công . Cháu Thơ không vào Đại
Học Đức được v́ tŕnh độ kém.
Đó là kết quả của việc đào tạo học
sinh theo chỉ tiêu quá yếu của Cộng Sản. Cháu ở
Đức năm sáu năm ǵ đó, giúp việc trong nhà hàng
ăn của cháu Công, và trở về Việt Nam cưới
vợ ở luôn VN. Đây là một vấn đề hội
nhập đảo ngược khó khăn của cháu v́ cháu
từ nước Đức giàu nhất Âu Châu, trở về
Việt
Con
gái Út của Thọ là Đoàn Phú Phương Thảo,
sinh viên Kiến Trúc. Cháu Thảo là tương
lai nối nghiệp Kiến Trúc trong gia đ́nh họ Nguyễn.
Cháu
Thọ sau khi tốt nghiệp cán sự, làm việc tại
Công Ty Hàng Không Việt
Vai tṛ của cháu rất quan trọng trong gia đ́nh
họ Nguyễn. Cháu chuyên về xây cất
và tham gia trong việc điều hành hương hỏa bởi
v́ Anh Chị Hai, ba má cháu đă an nghỉ trong khu Mộ Rạch
Cui.
Người
con thứ 3 của Anh Chị Hai là Đoàn Phát Minh vợ
sau là Nguyễn Thị Kim Xuyến. Cháu Minh cũng là
KTS do tôi đào tạo. Cháu có năng khiếu rất cao về
sáng tác của nghề Kiến Trúc. Cháu là KTS tốt
nghiệp của Viện Đại Học Saigon trước
Trong lúc tôi hành nghề ở VN th́ cháu Minh là KTS trưởng,
trong văn pḥng tư vụ của tôi. Cháu
điều hành các KTS khác và các họa viên để phụ
tá tôi. Riêng tôi th́ đinh minh là cháu Minh sẽ
nối nghiệp tôi làm chủ văn pḥng trong tương
lai. Nhưng đó là ư người c̣n định
mệnh th́ định đoạt cách khác.
Bây
giờ cháu Minh không cần hoạt động nghề nghiệp
để sống v́ cháu có một cửa hàng bán vật liệu
xây cất rất thịnh hành ở G̣ Vấp. Nói vậy chớ,
nghề Kiến Trúc của cháu vẫn c̣n đó, tay nghề
và kinh nghiệm của cháu không thua sút ai, nhưng với sự
lạm phát KTS hiện nay ở VN th́ việc cạnh tranh
nghề nghiệp mệt hơn là mua bán.
Hướng sinh hoạt của Minh là một chiều
hướng phát triển mới của đại gia đ́nh
tức là thương mại kinh doanh đi sau chiều
hướng trí thức.
Nội trợ của cháu Minh là Nguyễn Thị
Kim Xuyến cũng là người đảm đang giỏi.
Con trai là Đoàn Minh Tứ B́nh, sinh viên công chánh sắp
tốt nghiệp kỹ sư về xây dựng.
Tiểu gia đ́nh này có tương lai đầy
hứa hẹn. Tất nhiên là vai tṛ của
cháu Minh trong việc điều hành hương hỏa rất
là quan trọng cũng như Thọ người anh của
Minh. Với cái chuyên môn kiến trúc của ḿnh, cháu Minh
có thể làm được nhiều việc sáng tạo để
trùng tu hoặc xây dựng Phủ Thờ.
Người con gái Út của chị Hai là Đoàn
Thị Kim Hoàng, chồng ly dị là Nguyễn Thanh B́nh.
Cháu tốt nghiệp kỹ sư hóa học,
Viện Đại Học Sàig̣n nhưng cháu không hành nghề
kỹ sư mà cháu thích mua bán hơn.
Sau
một thời gian chuẩn bị, bé Bảy được
chấp nhận sang Đức để giúp việc trong
nhà hàng ăn của cháu Công. Cháu xuất
ngoại nhưng con gái của cháu là Nguyễn Ngọc Khuê
Anh c̣n kẹt lại ở Việt
3)
Gia đ́nh kế tiếp trong chi nhánh cậu
Mợ Ba là Anh Chị Ba Nguyễn Thị Tần,
Nguyễn Văn Thính. Gia đ́nh này ít người: 1
trai, 2 gái. Nơi ở của gia đ́nh không nhất định,
thay đổi nhiều nơi. Gia đ́nh này có một định
mệnh rất đặc biệt, có thể nói là đen tối
nhưng đây là gia đ́nh sáng chói nhứt trong gia đ́nh
họ Nguyễn.
Con
trai lớn và dâu của anh chị Ba là Nguyễn Văn
Đoàn, Đào Huệ Chi, cả hai đều là
KTS mà tôi có nói phía trước trong những vụ vượt
biên đau thương, mất tích trong vùng biẻn G̣ Công. Người
con gái lớn là Nguyễn Thị Phương, chồng
là Nguyễn Quang Trung, là dược sĩ và kiến trúc
sư viện đại học Sàig̣n. Các cháu hiện ở
Người
con gái út của chị là Nguyễn Thị Dung, bác sĩ
viện đại học Sàig̣n, hiện ở
Như
vậy tất cả 5 người con và rễ anh chị
Ba đều là trí thức cao cấp th́ tôi có thể nêu
danh là gia đ́nh sáng chói của gịng họ Nguyễn.
4)
Gia đ́nh Nguyễn Thiện Cầu
– Lưu Ngọc Diệp là gia đ́nh tôi thân thích hơn
hết v́ anh Tư với tôi là anh em trong gia đ́nh, người
bạn học song song đi từ tiểu đến trung
học, người bạn song hành trên bước đường
đời trôi nổi của thời cuộc, người
cùng chung số phận ly hương của tuổi già suy
tư. Trong cuộc đời của con người ít có
ai khắn kh1t với nhau được như vậy, cho
nên tôi cố gắng khách quan trong những ǵ tôi kể ở
đây.
Hiện
giờ anh chị định cư tại Đức Quốc,
ở chung với con rể tại vùng Stuttgard là Nguyễn
Thiện Ngọc Thúy, Nguyễn Duy Phương. Cháu
Phương là kỹ sư cơ khí, du học và tốt
nghiệp tại Đức, cháu có việc làm vững chắc
và lâu dài tại đây. Cháu Thúy là sinh viên đại
học, nhưng cháu thích thương mại kinh doanh hơn
là làm việc cố định. Hai đứa con nhỏ,
trai và gái của cháu rất thông minh kháu khỉnh.
Cháu
chung vốn với chị là Nguyễn
Thiện NGọc Oanh mở một nhà hàng ăn tại địa
phương.
Cháu Oanh hồi ở Việt
Người
con trai lớn của anh chị Tư là Nguyễn Thiện
Chiến, vợ là Vơ Thị Mai. Cháu
Chiến là kiến trúc sư đệ tử của tôi.
Cháu có năng khiếu về trang trí. Cháu
là người có số đỏ, làm ǵ cũng rất may mắn
trong đời. Cháu vượt biên suông sẽ và định
cư tại
Người
con trai kế của anh chị Tư là Nguyễn Thiện
Công. Cháu du học tại Đức, tốt
nghiệp kỹ sư cơ khí và ở luôn tại đó.
Gia đ́nh cháu bị trắc trở. Người
vợ trước là Tiêu Thị Hường, người
gốc Rạch Giá, cha mẹ và bà con làm đám cưới
cháu Công, Hường ở Việt Nam, xong mới cho
cháu Hường sang Đức sum họp với cháu Công.
Hai
con trai của cháu Công là Nguyễn Thiện Văn và Nguyễn
Thiện Đoàn, gia đ́nh này gẩy đổ và chia rẽ.
Sau đó cháu Công chấp nối với vợ
sau là Đặng Thị Trân Châu. Cháu
Công là người hiện đại cho nhóm sinh viên yêu nước
trước
Cháu
Công là người trí thức cao cấp, cháu thông minh lanh lợi
và có tinh thần gia đ́nh cao v́ cháu giúp em cháu ở Việt
Anh
chị Tư Nguyễn Thiện Cầu và các con cháu là một
nhóm gia đ́nh đoàn kết, phát đạt. Anh chị được
các con phụng dưỡng đầy đủ. Năm nào
anh Tư cũng về Việt Nam thăm gia đ́nh bà con,
anh có nhiều uy tín trong vấn đề hương hơa của
gia đ́nh nhưng anh đặt nặng quyền lợi cá
nhân hơn là quyền lợi chung cho nên đối lập với
số đông. Việc này sẽ kể rỏ
hơn ở sau.
5)
Sau anh chị Tư là gia đ́nh Chị
Năm Nguyễn Thị Quang – Vơ Văn Kềm
mà tôi có nói ở phía trước.
Chị
Năm hiện ở Long Xuyên cùng 3 con: 2 trai 1 gái đều
có gia thất là Vơ Thiện Châu, Trần Kim Xuyên. Cháu Châu
là người được cộng sản nuôi từ thuở
nhỏ, cháu về Nam sau 30-4-1975 với cấp bực thiếu
úy hải quân, cha phục vụ trong chánh quyền một thời
gian, đáng lẽ phải được tăng lên cấp
cao, nhưng cháu không có ư chí và tham vọng nên bị loại
khỏi chánh quyền. Hiện cháu và gia đ́nh sinh sống đơn
giản của một người dân.
Người
con trai kế của chị Năm là Nguyễn Vơ Thiện
Sơn, vợ là Phạm Thị Kim Loan. Cháu sống
dưới chánh quyền quốc gia từ lúc bé, lớn lên bị động viên trước
Người
con gái Út của chị Năm là Nguyễn Thị Thủy,
chồng là Nguyễn Thanh Quế sống với chị.
Tất cả con trai con gái đều có gia đ́nh, Chị
có cháu Nội, Ngoại. Gia đ́nh này sống
một cách đạm bạc, hơi riêng biệt có lẽ
v́ mặc cảm. Chị là gia đ́nh Liệt
Sĩ có công với kháng chiến nhưng không có ưu đăi
ǵ của chánh quyền. Chị Năm là người cương
trực, sáng suốt, Chị đă dành được
chủ quyền hương hơa khu mộ Rạch Cui nhưng
v́ sinh kế, Chị đă nhường lại cho Năm Mên.
Gần đây trong vấn đề tranh chấp
quyền lợi cá nhân của anh Sáu Điển, Chị đă
ra lệnh phá bỏ 3 cái nền nhà của con anh Sáu Điển
đă đấp trước Phủ Thờ.
Vấn
đề tranh chấp vẫn c̣n đó, v́ anh Tư Cầu đă
ra mặt áp đảo, lấy quyền trưởng tộc
trong đại gia đ́nh và đúng về phía anh Sáu Điển
để binh vực quyền lợi cá nhân anh ấy.
Việc
đó cho thấy vai tṛ sáng suốt của chị Năm
Quang rất là quan trọng trong gian đoạn chuyển tiếp
về sự tồn tại của gia đ́nh họ Nguyễn.
6)
Tiếp theo đây là
gia đ́nh anh chị Sáu Nguyễn Văn Điển
– Kha Thị Kim Vân. Anh Sáu là người tốt, tôi biết
rơ từ lúc anh c̣n nhỏ, lúc anh và Út Khiêu ở nhà tôi đi
học tiểu học ở Đà Lạt. Lúc đó tôi có
xin ghi danh cho 2 anh vào học ở Lycée Yersin trường Pháp.
Ngày nhập học anh Sáu bị đuổi về không cho học.
Người Hiệu Trưởng Pháp kêu tôi vào xài xể về
việc tôi ăn gian hạ thấp tuổi
anh Sáu, c̣n anh Khiêu th́ được chấp nhận. Khi các
anh về, tôi hỏi lại mới biết lớp các anh học
là lớp nhỏ gồm toàn trẻ con người Pháp. Khi
sắp hàng vào lóp, anh đứng cao ngệu hơn hẳn bạn
học cùng lớp trông thấy rơ nên bị ngăn trở.
C̣n anh Khiêu th́ nhanh trí, anh rùm xuống thấp nên đi lọt.
Việc đó cho thấy anh Sáu có tánh thật thà chân thật.
Sau
đó khoảng năm 1970 sau khi Cậu Ba qua đời th́
anh Tư Cầu gọi anh Sáu ở Sàig̣n về, thay quyền
thừa kế của anh để ở nơi Phủ Thờ
lo việc thờ cúng Ông Bà. Việc đó thích
hợp bản chất của anh và anh thủ ở đó
cho đến bây giờ.
Sau
Tất cả việc đó cho thấy anh là nguời
có công ǵn giữ nhà Phủ Thờ tức là sự tồn tại
của gia đ́nh họ Nguyễn.
Anh
Chị có 4 người con gái là Nguyễn Thị Thanh
Giang, chồng là Huỳnh Hữu Siêu, người
con gái thứ nh́ là Nguyễn Thị Kim Chi, chồng là Phạm
Đăng Dũng, người con gái thứ ba là Nguyễn
Thị Ngọc Linh, chồng là Trương Ngọc Trợ,
người con gái út là Nguyễn Thị Phương Hồng,
chồng là Nguyễn Văn Bông. Tất cả đều
có con, cháu ngoại anh chị.
Việc
anh chị không có con trai là mộy vấn đề quan trọng
về tục thừa kế hương hơa trong gia đ́nh.
Hồi trước chị Hai, con gái lớn cậu mợ
Ba, đă không được chọn thừa kế hương
hơa mặc dù anh Hai có công lấy lại ruộng đất
trong tay Ḥa Hăo, th́ nguyên tắc đó được
áp dụng trở lại. Việc đó có nêu
rơ trong Bản Tổ Chức Nội Bộ gia đ́nh họ
Nguyễn, là anh Sáu có quyền đề nghị người
thừa kế hương hơa để Đại Hội
Gia Tộc quyết định.
7)
Gia đ́nh con trai Út cậu mợ
Ba là Nguyễn Văn Khiêu, vợ là Nguyễn Thị
Tuyết Hạnh, anh Khiêu được
cậu mợ Ba cưng yêu v́ anh là con Út. Bẩm chất anh
hiền lành, dễ mến và lanh lẹ. Nhưng anh có một
định mệnh đen tối đeo đuổi anh
trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của Anh.
Tôi
nhớ là lúc anh c̣n bé, mỗi lần anh đi
chơi bên voi Đ́nh về là anh bị nóng lạnh. Đó là sự nhận xét của mợ Ba. Về
sau tôi thường đi chơi với anh nhiều nơi,
mỗi lần đi xe là bị trục
trặc. Có lần tôi đi với anh về Long Xuyên, th́ chút
nữa là xe cán người, và đâm xuống
rạch. Khi đi Đà Lạt th́ xe hư
nằm đường. Tôi sợ quá, mỗi
lần đi với anh là tôi đề pḥng cẩn thận.
Sau
Hiện
giờ chị Út Khiêu cùng hai con sống chung
trên lô đất của anh Sáu Điển cho ở sau
Gia
đ́nh chị Út và con cháu sống một cách nhỏ nhoi,
khiêm nhượng tại Vĩnh Trinh, cháu Phương có việc
làm ở Thốt Nốt, sớm đi chiều về. Mấy
năm sau 30-04-75, đáng lẽ gia đ́nh này được
Hoa Kỳ cho nhập cư theo diện HO, nhưng chị Út
là người thật thà, không có tầm nh́n rộng, không được
gia đ́nh nâng đỡ cho nên đă bỏ qua dịp may đó.
Việc đó cũng không có ǵ đáng tiếc
v́ chị Út có đời sống ở đây thích hợp hơn
là đời sống di cư ở hải ngoại.
Hơn
nữa, cháu Phương và anh Sáu Điển là 2 người
phái nam duy nhất của đại gia đ́nh c̣n sinh sống
tại Vĩnh Trinh th́ cháu Phương sẽ có một vai
tṛ quan trọng trong việc thừa kế hương hơa mà
Đại Hội Gia Tộc phải xem xét.
8)
Gia đ́nh
kế tiếp sau chi nhánh 2, (Cậu Mợ Ba) là gia đ́nh của
tôi v́ má tôi thứ tư sau cậu Ba. Đây là gia đ́nh Huỳnh
Kim Măng mà tôi biết rơ hơn hết. Đây là một gia
đ́nh ít người ở hải ngoại. Người nội
trợ trước của tôi là Lê Thị
Nhắc
lại hồi tôi c̣n du học tại Pháp th́ tôi và vợ trước
đă chi rẽ, Bà ấy sang Bỉ lập gia đ́nh ở
Dinant, sau về Bruxelles, làm ăn phát đạt.
Tôi về Việt Nam với con nhỏ là Kim Uyên và tôi cũng
lập gia đ́nh với người vợ hiện nay là Nguyễn
Thị Ngân Kiều, Bà học tại Viện Quốc Gia
Hành Chánh và tốt nghiệp Đốc sự hành chánh ở
đó. Năm 1970, tôi cho Kim Uyên xuất
ngoại du học tại Bỉ để gặp lại mẹ
và Bà ngoại ở đó. Con Kim Uyên học tại
Viện Đại Học Bruxelles, khóa tâm lư học. Con lập
gia đ́nh, có cửa hàng thương mại và bảo lănh
chúng tôi và Bảo qua đó (Bruxelles). Vài năm sau gia đ́nh
con và 2 con nhỏ di cư sang Hoa Kỳ, làm thương mại,
an cư lạc nghiệp ở Houston tiểu bang Texas Hoa Kỳ.
Chúng
tôi có ư định làm thương mại sau khi định
cư, chúng tôi sang một cửa hàng bánh ḿ, bánh ngọt tại
trung tâm thương mại, sau 15 năm cần cù lao động, chúng tôi mua cao ốc nhỏ 4
lầu tại tiệm bánh, sửa sang đầy đủ
tiện nghi và cho thuê. Hiện nay chúng tôi dưỡng già tại
một căn nhà nhỏ khu gia cư, đời sống an nhàn đầy đủ, làm vườn và
lo việc gia đ́nh hương hơa ở Việt
9)
Gia đ́nh
sau chúng tôi là Lê Ngọc Mừng tự Siếu vợ
là Trần Thị Rép, cả hai đều qua đời,
con cháu tản lạc. Đây là gia đ́nh vô phước của
họ Nguyễn.
Nhắc
lại năm 1958 tôi ở Pháp về, có đến
thăm D́ Dượng Sáu (Nguyễn Thị Huyện – Lê
Văn Kĩnh) là ba má chú Siếu. D́ Dượng ở đầu
cầu Voi Đ́nh, trong một căn nhà nhỏ cất bằng
vật liệu cũ của lẩm lúa, với con dâu và cháu
nội. Nhà nhỏ nhưng vững chắc, thông
thoáng và ngăn nắp. D́ Dượng đă lớn tuổi,
sống đơn giản, an nhàn, xung
quanh nhà trồng vài gốc
Về
phương diện cá nhân, D́ Dượng Sáu là người
thế hệ thứ 2 của gia đ́nh, lớn tuổi nên
có tánh thủ cựu, không cho đứa con duy nhất là chú
Siếu ăn học, mở mang. Lúc đó phương
tiện đi học xa nhà của lứa trẻ không c̣n dể
dàng như lúc cậu Tám Châu Đốc c̣n độc thân.
Có lúc chú Siếu đi làm xa nhà, có lúc tôi cho chú
gia nhập vào nhân viên công trường của văn pḥng nhưng
không có kết quả.
Một
lần khác về sau, chú thím Tông, con Cậu Mợ Bảy,
có ư gọi mấy đứa con của chú Siếu lên chợ
số 2 giúp v́ệc buôn bán, nhưng chú cũng từ chối.
Người
con gái lớn của chú thím là Lê Mỹ Tiên, chồng là
Nguyễn Văn Tuấn đă có 2 cháu, người con
trai út thứ 3 là Lê Châu Tuấn, vợ là Khên Thị
Kim Nga, có một cháu trai. Người con
trai giữa là Lê Châu Long, độc thân.
Gia đ́nh này c̣n vững khi D́ Dượng Sáu c̣n sống,
nhưng D́ Sáu đă qua đời. Tôi c̣n nhớ sau
Đây là một trường hợp đáng buồn
cho gia đ́nh họ Nguyễn. Đă nhiều lần tôi
có cảm tưởng là chú Siếu không có tinh thần tự
lập, chú tự làm “khổ nhục kế” để chứng
tỏ là gia đ́nh họ Nguyễn có tiếng sung túc mà không
đùm bọc được một chi nhánh sống c̣n, như
vậy có đúng không?
Tôi nghĩ là trong giai đoạn gia đ́nh ít người,
sống gần nhau như lúc D́ Dượng Sáu c̣n sống,
th́ trách nhiệm bao bọc của gia đ́nh đă được
thể hiện đầy đủ. Nhưng khi gia đ́nh
phát triển đông người, ở nhiều nơi, th́
cái trách nhiệm đó rất nặng, khó thể thực hiện
một cách đầy đủ, việc thành bại, chủ
yếu là do sự cố gắng của từng người,
phải cần cù lao động, đó là định luật.
10)
Tiếp theo là gia đ́nh chú thím Tống(Nguyễn
Văn Tống - Nguyễn Thị Lệ), con của
cậu mợ Bảy. chi nhánh này rất đông
người: 9 chị em, 2 trai, 7 gái mà tôi biết hầu hết
trừ ra 3 đèo nhỏ. Hồi cậu mợ Bảy c̣n
sanh tiền th́ cậu mợ căn cứ trên Kinh Xáng, cầu
đúc số 3. Cậu mợ có một tiệm hàng
xén khá lớn, bán rượu công-xi (công ty) bài nh́. Cậu
mợ có một ngôi nhà ngói khá lớn ở phía trong bờ
kinh. Đây là xóm nhà chót xă Vĩnh Trinh trên lộ Rạch Gia,
đi xa hơn một đôi là Làng Sen, đồng ruộng
mênh mông thẳng tới Cái Sắn. Giai đoạn kế đó,
sau khi cậu Bảy mất, th́ một phần gia đ́nh lên
ở thành phố Long Xuyên, trên đường Châu Đốc,
bên kia ḅ kinh (1952). Gia đ́nh chia phân nữa vật liệu
xây cất lấy từ lẩm lúa Vĩnh Trinh và dựng lên
nhà sàn hiện nay. Tôi nhớ là trong những năm sau 1960, mỗi
khi tôi và cậu Tám trên đường về Châu Đốc
đều có ghé thăm mợ Bảy và các cô ở đó.
Tôi
ít khi gặp các chú Tống, Thế, lần chót tôi gặp chú
Tống ở Vĩnh Trinh vào dịp đám cưới anh
chị Út Khiêu tại Phủ Thờ khoảng năm 1962. Lúc đó chú Tống là sĩ quan, cấp Đại
Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, chú đi có em út quân đội
hộ tống. Tôi khuyên chú nên thận trọng trong nhiệm vụ quân đội,
không nên quá hăng say v́ t́nh h́nh chính trị vẩn bắp bênh,
không biết sẽ về ai.
Sau
thời gian dài 40 năm tôi mới gặp lại chú ở
Chú
là quân nhân nên được Hoa Kỳ cho định cư theo diện HO tại đó. Chú thím và gia đ́nh
5 con sống đoàn tụ, an cư lạc
nghiệp tại đó. Con gái lớn là Nguyễn Thị
Thu Nguyệt, mới lập gia đ́nh với Lâm Lễ
Đ́nh, chúng tôi có dự đám cưới rất long trọng.
Người con trai kế là Nguyễn Thanh Tùng vợ
người Thái Lan là Pencharoensioat, đă
có con trai nhỏ rất kháo khĩnh. Những người
con khác là Nguyễn Thị Thùy Trang, Nguyễn Anh Tuấn,
Nguyễn Thanh Tú đều c̣n trẻ tuổi.
Từ
lúc chú thím và các con ở Việt Nam cho đến khi định
cư ở hải ngoại, chú thím đă quen việc làm ăn,
cần cù lao động, giờ đây cái định luật
quen thuộc ấy sẽ đưa chú thím và các cháu vào một
tương lai rộng mở, đầy hứa hẹn.
Hiện giờ cháu Thanh Tùng đă làm chủ một
xí nghiệp, lănh việc làm sạch các cao ốc rất phát
đạt. Chú thím c̣n đang trù tính việc
mỡ rộng kinh doanh cho các cháu gái.
Đây là một chiều hướng phát triễn
mới của gia đ́nh họ Nguyễn ở hải ngoại
tức là hướng phát triển kinh doanh sau phát
triển trí thức.
11)
Gia đ́nh kế tiếp, anh em ruột
gắn bó với chú Tống là Nguyễn Văn Thế,
Dương Kim Thoàn. Chú Thế là sĩ quan Thiếu Tá
Quân Lực VN Cộng Ḥa. Tôi có nói là sau
Chú
được Hoa Kỳ cho định cư theo diện HO trước chú Tống 2 năm.
Hiện giờ chú thím đă an cư lạc
nghiệp tại
Chú
thím Thế có 5 người con: 2 trai, 3 gái cũng định
cư ở Hoa Kỳ. Con trai lớn là Nguyễn Thế
Phong, con trai kế là Nguyễn Thế Hiển vừa
mới lập gia đ́nh với Dương Ngọc Yến.
Ba người con gái của chú thím đều có gia đ́nh
sau khi định cư. Đó là Nguyễn Thị Thế
Hải - Huỳnh Văn Dũng có 3 con nhỏ, Nguyễn
Thị Thế Phương – Vơ Thanh Quan có một con, Nguyễn
Thị Thế Vinh – Đoàn Văn Chính có một con.
Gia
đ́nh này đông đảo, con rể và con cháu đầy
đủ, trai gái đều an cư lạc nghiệp ở
Hoa Kỳ. Tôi chưa có dịp gặp các gia đ́nh con rể
của chú thím Thế.
Hồi
chúng tôi c̣n ở TP Hồ Chí Minh sau 30-04-1975, cô Dượng Nguyễn
Thị Cúc – Vơ Ngọc Hoành, con rể cậu mợ
Bảy thường tới lui với chúng tôi ở đường
Duy Tân. Sau khi chúng tôi xuất cảnh sang Bỉ mới biết
là cô Cúc đă qua đời.
Tôi
có gặp cô Chưu Nguyễn Thị Năm, chồng
là Nguyễn Tấn Triệu trong chuyến chúng tôi về
VN vào dịp đám cưới cháu Phương, con anh chị
Út Khiêu tại Vĩnh Trinh năm 1997.
Tóm
lại, chi nhánh cậu mợ Bảy rất đông người,
đa số ở Việt Nam – Long Xuyên, không xa nơi Phủ
Thờ, là một ưu thế lớn trong những quyết
định về hương hơa của gia đ́nh họ
Nguyễn.
Hai chú Tống và Thế ở hải ngoại, có tương
lai vững chắc tốt đẹp, cũng có vai tṛ quan
trọng và uy tín trong việc điều hành hương hơa
gia đ́nh họ Nguyễn.
12)
Gia đ́nh Cô Dượng Nhă, Nguyễn
Thị Mừng – Lê Thanh Nhă, trong chi nhánh cậu mợ
Tám Châu Đốc, hiện định cư tại
Tôi có nói về trường hợp cháu Phong ở
trước trong những vụ vượt biên đau thương.
Cháu cùng người cậu vượt biên, bị
cướp biển chận bắt, bắn chết người
cậu. Cháu được định cư sang Hoa Kỳ,
con trẻ nhỏ, xa nhà xa cha mẹ, lẻ loi một ḿnh mà
cháu ăn học thành tài, đậu tiến sĩ điện
toán (Master informatique) vợ cháu là nha sĩ ở Việt
Nam qua, các cháu hiện có việc làm tại tiểu bang
California ở Hoa Kỳ. Trường hợp của cháu
Phong thật đáng khen.
Trong dịp tôi đi Hoa Kỳ, chúng tôi có ghé thăm
Cô Dượng tại
Con
gái lớn Lê Thanh Thu Nguyệt, chồng là Nguyễn
Thành Duy Khương vừa lập gia đ́nh, con trai út Lê Thanh Minh vợ là Huỳnh
Thị Thu Thảo đă có cháu.
Cô dượng sống với 2 con nhỏ là Lê
Thanh B́nh và Lê Thanh Thu Hà, những con lớn có gia đ́nh
đều sống riêng.
Cô Mừng là người nội trợ đỡm
đương, cần mẫn. Hồi cô
dượng c̣n ở Việt
13)
Gia đ́nh kế tiếp sau Cô Mừng
là Cô Vui, Nguyễn Thị Vui – Lê Chí Trường.
Gia đ́nh này tôi có nói ở trước trong những vụ
vượt biên tốt số. Nhưng vượt biên là bước
đầu, bước sau là đời sống định
cư th́ gia đ́nh đổ vở sau cái chết của cô
Vui.
Cô
Vui là người có tinh thần gia đ́nh, cô đă giúp đở
bà con từ Việt Nam mới qua định cư tại địa
phương Annandale, nhưng định mệnh trớ trêu
nên cô mất sớm, để lại sự thương
tiếc của bao nhiêu người.
Cô mất đi th́ gia đ́nh ví như nhà mất đi
cột trụ chánh. Khi tôi đến thăm
vào dịp tôi đi Hoa Kỳ năm 1999 th́ gia đ́nh này không
c̣n nữa. Tôi chỉ gặp dượng
Trường trong t́nh trạng bệnh hoạn suy yếu.
Trong
những năm về trước, con gái tôi là Kim uyên ở
Houston có cho biết là có liên lạc với gia đ́nh c̣n rể
cô dượng là Lê Chí Thùy Trang – Lê Trung Quân, 2 con
nhỏ là Vi, Mi và nó hỏi tôi việc nó bà con với gia đ́nh
này như thế nào, cấp bực lớn nhỏ ra sao, cho
nên tôi có ư định lập bộ Gia Phả gia đ́nh
họ Nguyễn hiện nay.
Sau
đây tôi nhớ đến Cậu Mợ Tám Châu
Đốc, song thân cô Mừng, cô Vui và tôi xin tŕnh bày quăng đời
c̣n lại của cậu Tám. Sau
Nhưng sau đó không lâu th́ những việc buồn
phiền xảy ra liên tục. Trước
hết là việc Dượng Trường v́ bất
măn vói chế độ mới nên đă vượt biên.
Kế đó là cách mạng Văn Hóa Việt Cộng sung công
nhà in Nhựt Văn của cậu. Chúng phá hủy
tất cả, đem những hộc chữ trong nhà in đỗ
dưới gốc cây trứng cá bên lề đường.
Việc đó làm cho cậu không c̣n sức chịu
đựng, đó là nỏi buồn vô tận của tuỏi
già, cậu im lặng, không buồn tṛ chuyện với ai hết.
Việc buồn kế tiếp là chú Sáu Khá vượt
biên không tin tức (chú bị cướp biển bắn chết).
Sau
một thời gian lâu, cô Vui làm hồ sơ bảo lănh Cậu
và các chú Tấn, Vĩnh di cư sang Hoa Kỳ th́ cậu cũng
chấp nhận. Nhưng hồ sơ xuất
cảnh chưa xong th́ tôi được tin cậu Tám đă
qua đời.
Lúc
đó tôi đă xuất cảnh sang Bỉ (1985). Tin cậu Tám
mất làm tôi buồn vô hạng, nhớ công ơn cậu đă
nuôi chúng tôi ăn học, tôi bùi ngùi xúc động,
không cầm được nước mắt.
Tôi
nghĩ là nếu cậu Tám thấu hiểu cái chính sách của
Cộng Sản là thâu gồm tất cả những phương
tiện in và phổ biến những ǵ chúng muốn phổ
biến để nhồi sọ con người th́ cậu
đă không buồn đến đổi.
Dầu
sao th́ việc Cậu không phải xa ĺa quê hương và an
nghỉ bên cạnh mộ mợ Tám ở núi Sam là việc tốt
đẹp, an lành của đời người.
Cô
Dượng Trường có người con trai lớn là
Lê Chí Trường Thịnh vợ là Trần Vân Kim,
con nhỏ là Lê Thị Mỹ Lan.
Lúc chúng tôi c̣n lo việc mua bán ỏ Bruxelles, cháu Thịnh
có đến thăm chúng tôi 2 lần. Lúc
đó cháu ở Hoa Kỳ đi tập sự tại Londres.
Cháu đi châu du nhiều nơi ở Âu Châu.
Về
sau tôi mới biết cháu là người con hiếu thảo
của gia đ́nh, cháu trợ cấp cho 2 người cậu
c̣n lại ở Châu Đốc sống an
nhàn.
Cháu
Thịnh là người trí thức cao cấp của gia đ́nh
họ Nguyễn, cháu học đỗ Tiến Sĩ Điện
Toán (Master informatique) hiện có việc làm
ở
Cháu Thịnh có tinh thần gia tộc (esprit de
famille). Tôi tin là trong tương lai cháu sẽ chững
chạc thay thế người mẹ là Cô Vui trong vai tṛ đầu
đoàn của gia đ́nh cậu Tám ở hải ngoại.
14)
Chú Tấn và Chú Vĩnh là
2 người con trai chót của Cậu Mợ Tám Châu Đốc.
Hai chú ở độc thân, thủ ngôi nhà ngói rộng lớn
của gia đ́nh trên đầu lộ Núi Sam gần Cầu
Đúc.
Cậu
Mợ Tám là gia đ́nh có gia thế vững chắc và có tiếng
tăm ở Châu Đốc. Cái ư định di cư không thành
của hai chú trước kia là việc tốt, các chú ở
đây thích hợp và an nhàn hơn là cuộc sống di cư
ở Hải Ngoại.
Chú
Tấn là cán sự kiến trúc. Chú đăm
nhiệm không vụ lợi về công trường xây cất
chánh điện Miếu Bà ở núi Sam.
Vai tṛ của hai chú trong vấn đề hương
hơa của gia đ́nh họ Nguyễn rất là quan trọng,
v́ hai chú đại diện chi nhánh Cậu Mợ Tám ở lại
chổ Vĩnh Trinh.
Các
chú tham gia việc điều hành hương hơa không phải
v́ quyền lợi cá nhân mà v́ sự đoàn kết chung. Vă lại chú Tấn rất am hiểu về
nhiệm vụ của người thừa kế tức là
nhiệm vụ của Ông Từ ở Phủ Thờ.
Đến đây tôi kết thúc việc kiểm điểm
của gia đ́nh cá nhân trong khung cảnh đại gia đ́nh
họ Nguyễn.
C̣n
2 tiểu gia đ́nh khác ở hải ngoại là gia đ́nh
chú thím Nguyễn Văn Lực, Lê Hồng Hạnh,
trong chi nhánh Cậu Mợ Tám và gia đ́nh 2 cháu Nguyễn
Thiện Chiến, Vơ Thị Mai, chi nhánh Cậu Mợ
Ba, con trai lớn anh chị Cầu, hiện đă an cư lạc
nghiệp tại miền Tây Bắc Hoa Kỳ mà tôi chưa có dịp đi
tới nên chưa có chi tiết.
Kết Luận
Sau khi tŕnh bày thực trạng các gia đ́nh cá nhân
thế hệ 3, tôi xin nêu lên bản tổng kết về cấp
bực khoa bảng hoặc chức vụ của các thành viên
gia tộc trong bưóc thang xă hội.
Những
cấp bực hoặc chức vụ này tôi đă nói qua
trong bản tổng kết gia đ́nh cá nhân nhưng đây
là tổng kết chung.
Bản
tổng kết cấp bực khoa băng và chức vụ:
4
cán sự kiến trúc
7
kiến trúc sư
1
cán sự điện lực
2
kỹ sư cơ khí
2
tiến sĩ điện toán
2
bác sĩ
1
dược sĩ
1
kỹ sư hóa học
3
sĩ quan
2
trưởng ty
1
phó khoa trường đại học kiến trúc
1
giáo sư trường hoa thất kiến trúc
1
giáo sư chủ nhiệm Bộ Môn Quy Hoạch
1
giáo sư sinh ngữ
Tổng
cộng 30 cấp bực hoặc chức vụ
Ghi
chú: một người có thể đăm nhiệm nhiều
chức vụ.
Bản
tổng kết này gồm có 25 người với 30 cấp
bực hoặc chức vụ, bằng khoảng 12% tổng
số thành viên lớn nhỏ trong gia đ́nh và như vậy
xác nhận một cách trung thực chiều hướng
trí thức của gia tộc.
Khung
cảnh đại gia đ́nh họ Nguyễn trong cùng ngoài
nước, mọi người đều có đời sống
ổn định, an cư lạc nghiệp ngoại trừ
một số nhỏ gia đ́nh bất hạnh v́ định
mệnh không tốt, một gia đ́nh duy nhất v́ nghèo túng.
Trong
hướng phát triển chung có một hướng mới
hiện lên đày tương lai, đó là hướng
kinh doanh thương mại của một số nhỏ
gia đ́nh như anh chị Cầu và các con với 2 nhà
hàng ăn đông khách ở Đức Quốc, gia đ́nh chú
thím Tống và các con trong những xí nghiệp dịch vụ
ở tiểu bang VA Hoa Kỳ, gia đ́nh các cháu Đoàn
Phát Minh, Nguyễn Thị Kim Xuyến với cửa
hàng vật liệu xây dựng tại G̣ Vấp ở Việt
Nam.
Hướng
phát triển mới này cần được mở mang phát
triển mạnh hơn để cân bằng với chiều
hướng trí thức đă có từ lâu.
Với
những sự nghiệp đă kể trên, tôi có thể nói lên
một niềm vui chung là chúng ta nên tự
hào là người của gia đ́nh họ Nguyễn. Chúng ta nối nghiệp Ông cha một cách xứng đáng,
thể hiện sự tồn tại vững chắc của
gia đ́nh. Chúng ta đă thực hiện khu
mộ Rạch Cui, chúng ta bắt đầu tu bổ, xây
cất Phủ Thờ. Tôi rất lạc quan trong hướng
phát triển tương lai đó.
Nhưng, tất cả mọi việc đều
có cái nhưng, chúng ta đang bị đe dọa bởi một
bất trắc tan ră. Cái hiểm họa đó
từ đâu ra? Nó từ bản chất
bẩm sinh của chúng ta phát triển trong sự chống đối
giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi
chung.
Tôi
cố gắng tŕnh bày một cách khách quan những sự việc
xảy ra như sau: người thừa kế hương
hơa trong gia đ́nh Trưởng tộc là anh Nguyễn Thiện
Cầu. Anh nhường quyền đó cho người
em giữa là anh Nguyễn Văn Điển.
Anh Sáu Điển có công ǵn giữ Phủ Thờ
trong giai đoạn biến đổi của thời cuộc.
Nhưng anh Sáu có 4 người con gái chớ không có con trai. Tất
cả gia đ́nh con rể anh đều có cháu.
Hiện nay vấn đề thừa kế hương
hơa đang được đặt ra. Nếu anh chị
Sáu có con trai nối nghiệp th́ không có vấn đề ǵ
hết. Vấn đề con gái đối với việc
thừa kế hương hơa đă được giăi quyết
theo truyền thống gia đ́nh lúc Cậu
Ba c̣n sanh tiền. Đó là việc chị Hai Nguyễn Thị
Điệt, con gái lớn cậu mợ Ba, chị không được
gia đ́nh cho thừa kế hương hơa v́ chị là con gái,
mà gia đ́nh đương nhiên chỉ định anh Tư
Nguyễn Thiện Cầu kế nghiệp thờ cúng Ông Bà.
Bây
giờ đại đa số người trong gia đ́nh đều
có ư định tiếp tục hương hơa theo tục lệ từ ngàn xưa của Việt
Sự
việc đă xảy ra một cách hùng hồn quyết định
khi chị Năm Nguyễn Thị Quang, con gái cậu mợ
Ba, đă ra lịnh phá bỏ 3 cái nền nhà do anh Sáu Điển
đắp lên trước Phủ Thờ để chia cho
con rể anh chị.
Một
việc khác rất quan trọng là việc gia đ́nh đă
lập nên một văn bản gọi là định hướng
về quản lư và tôn tạo khu Phủ Thờ với
chữ kư tên ủng hộ của đại đa số
thành viên thế hệ 3 và 4 của gia đ́nh (năm 2000)
ghi rơ những điều kiện mà người thừa kế
hương hơa là anh chị Sáu Điển phải tôn trọng
trong việc nối tiếp thờ cúng.
Đây là văn kiện đầu tiên có giá trị
về việc điều hành tập thể mà mọi
người điều thỏa thuận kư tên ngoại trừ
2 người là anh Cầu và anh Sáu Điển.
Các anh đă ra mặt chống đối.
Có thể các anh muốn lợi dụng cái luật
lệ không công minh của Cộng Sản để dành lợi
thế chăng?
Một hiểm họa khác có thể đe dọa
sự tồn tại của gia đ́nh là t́nh trạng suy
thoái, xuống cấp của Phủ Thờ, Nhà này đă được
xây cất cách nay hơn một trăm năm (132 năm).
Cột kèo, sườn nhà bị mọt mối
đục khoét.
Đến lúc nào đó, nhà sẽ sụp đổ
không thể tránh. Nếu các thế hệ sau không có khả
năng xây cất lại Phủ Thờ th́ gia đ́nh sẽ
tan ră. Cái hiểm họa này đă làm biết
bao gia đ́nh địa chủ không c̣n nữa.
Do
đó, chúng ta nên cứu xét việc tu bổ hay xây cất Phủ
Thờ một cách toàn diện, tránh việc tu bổ,
chấp nối từng phần lũng cũng, không ăn khớp nhau.
Tôi có nhận được thơ anh Cầu kêu gọi
anh em gia đ́nh giúp anh Sáu giữ vững Phủ Thờ cho đến
khi anh Sáu chết. Tôi cũng được
thơ anh Sáu cho biết mái nhà thờ bị mưa dột và
cần sữa chữa.
Tôi hoàn toàn tán thành những việc đó.
Tôi đă viết thơ cho anh Sáu biết là tôi sẽ
tham gia sữa chữa Phủ Thờ với tư cách cá nhân,
vô điều kiện.
Sau
đó tôi được thơ của Thọ, của chú Tống,
của chú Tấn, tất cả đều nói rơ về ư đồ
chia rẽ v́ quyền lợi cá nhân của anh Cầu và anh Sáu
Điển, tất cả đều yêu cầu tôi xét lại
ư định của tôi trong vấn đề tu bổ Phủ
Thờ.
Tôi
nghĩ là vấn đề nguyên tắc tham gia của tôi đă
hứa th́ tôi không thể thay đổi được, nhưng
công việc c̣n ở trong giai đoạn chuẩn bị, chưa
khởi công th́ tôi có thể đề nghị một tổ
chức chặt chẽ chớ không phải làm một cách làm
đơn sơ như khu mộ được. Tôi cũng
có thể trở lại vấn đề mỡ rộng
khu mộ với Thọ và để kinh phí vào việc hoàn
thành phía mở rộng, như vậy th́ việc tu bổ
hoặc xây cất mới Phủ Thờ, không có sự tham
gia cá nhân của tôi mà phải có sự gây quỹ chung của
tập thể.
Đây
là một trở ngại lớn v́ anh Cầu và anh Sáu Điển
không chấp nhận việc gây quỹ chung
tức là cái tranh chấp giữa cá nhân hay tập thể.
Việc
tu bổ Phủ Thờ, thay mái ngói là một công tác nhỏ,
có thể anh Sáu Điển sẽ được anh Cầu
trợ cấp qua sự tiếp xúc của Nguyễn Thiện
Công ở Đức.
Nhưng việc lớn hơn như vấn đề
xây cất mới toàn bộ Phủ Thờ
sau khi xây cất cũ bị sụp đổ th́ không biết
sẽ ra sao? Cho nên anh Cầu hy vọng là
Phủ Thờ sẽ đứng vững cho đến hết
thời anh Điển. Đó là một
giải pháp dời bài toán lại để các thế hệ
sau giải quyết. Việc đó cho thấy là anh Cầu
tránh né vấn đề, theo anh th́ sau khi các thế hệ lớn
tuổi không c̣n nữa th́ nhóm con rể của anh Sáu Điển
sẽ ra tay làm thịt Phủ Thờ như việc đă
làm.
Đến đây tôi tạm ngừng tiểu sử
gia đ́nh họ Nguyễn để kiểm điểm những
thành quả mà gia đ́nh đă gặt hái được và để
dự đoán cái tương lai mà gia đ́nh có thể sẽ
đi tới.
Bắt
đầu từ con số không, bây giờ gia đ́nh đă
có một số văn kiện căn bản như Bộ
Gia Phả năm 2000, tuy c̣n thiếu một ít tài liệu
nhỏ nhưng có thể nói đây đă có đầy đủ
tên họ, thế hệ, và sự liên hệ với nhau của
các thế hệ.
Kế đó là bản Định hướng
về quản lư và tôn tạo Phủ Thờ có những
chử kư của đa số các thế hệ thành viên của
gia đ́nh, quy định những điều lệ về
thừa kế hương hơa của anh Nguyễn Văn Điển.
Hai văn kiện kể trên là kết quả
của việc làm tập thể thành viên gia đ́nh.
Những việc làm thực tế th́ có sự khởi
đầu h́nh thành khu mộ Rạch Cui với một
mặt bằng nhỏ hẹp méo mó nhưng đă có ṿng rào
tạm và nền đất bằng phẳng, việc mở
rộng khu mộ c̣n đang tiến hành nhưng khó khăn
hơn.
Kế đó là tại Phủ Thờ th́ anh Điển
đă thực hiện việc thay mái ngói của xây cất
cũ. Việc làm tạm bợ, lủng
củng này là cần thiết để ở, anh Điển
làm hoàn toàn cá nhân, không có chương tŕnh xây cất toàn bộ
Phủ Thờ.
Phía
đa số đối lập hoàn toàn tán thành những việc
đă thực hiện xong nói trên như cái kết quả của
sự đoàn kết chung trong đại
gia đ́nh mà công đầu có thể nói là do nơi anh Cầu
với trách nhiệm của gia đ́nh trưởng tộc.
Nhưng phía đa số đối lập không chấp
nhận cái hậu ư đen tối, bất chánh của anh
khi các anh xem của hương hơa là của riêng có thể
chia sẻ phân phối cho con rể anh Điển.
Việc
các anh cho đấp 3 cái nền nhà trước Phủ Thờ
đă bị phản ứng gia đ́nh và chị Năm Quang
dẹp tan, nếu không th́ gia đ́nh họ Nguyễn đă
bị nhận ch́m và tan ră rồi.
Cái
hiểm họa tan ră vẫn hiện lên to lớn khi nào anh Cầu
c̣n kiên tŕ trong ư định xé tan gia đ́nh để dành của
riêng. Việc chống đối nội bộ
có thể đi tới việc thưa kiện tốn kém để
chánh quyền phân xử. Thắng bại
cũng chưa biết sẽ về ai? Việc
dựa vào chánh sách của chánh quyền Cộng Sản để
cầu thắng là một hy vọng bấp bênh, mọi việc
đều tiến triển, thay đổi chánh sách cũng
vậy. Dầu cho phía thiểu số anh
Cầu, anh Điển có toàn thắng đi nữa th́ cái lợi
thắng cuộc rất nhỏ nhoi, không đáng kể, không
thế nào mà đấp được cái mất mát về
tinh thần to lớn.
Nếu
ṭa án không công nhận hương hơa, xử di sản trở
thành di sản thông thường th́ việc phân chia di sản
cho các chi nhánh thế hệ 2 và 3 (xem gia phả) trong đó có
anh Điển chỉ bằng 1/12 của đất hương
hơa th́ thật là nhỏ nhoi, không bù đấp đủ sự
tốn kém chi phí và cái mất mát về tinh thần thật
to lớn không lường được.
Chúng ta trở lại cái kết luận của tương
lai gia đ́nh họ Nguyễn. Sau khi cân nhắc sự
hơn thiệt của mọi giải pháp áp dụng th́ có
giải pháp nào lợi hơn một, sự thỏa thuận
chung để vung đắp sự tồn
tại và bền vững của đại gia
đ́nh trong tinh thần gia tộc mà Ông Bà đă truyền
dạy chúng ta. Hy vọng là sự phục hưng sẽ
là cái kết quả chung cuộc của
gia đ́nh họ Nguyễn.
Hồi
Kư của Huỳnh Kim Măng
viết xong trước năm 2000
Phụ
Bản
Hương
hỏa
Tiểu
sử gia đ́nh họ Nguyễn tại Vĩnh Trinh – Long
Xuyên
Định
nghĩa danh từ trong việc Thờ Cúng và hương
hỏa
Hương
hỏa
Hương hỏa là ǵ? Hương
à nhang, Hỏa là lữa. Hương hỏa
là nén hương đang cháy, là thờ cúng Ông Bà. Đó là tục lệ, truyền thống lâu đời
của VN.
Dưới
thời Pháp thuộc, người Pháp công nhận chánh thức
việc thờ cúng, như một tôn giáo của xă hội
VN cũng như Phật Giáo hay Thiên Chúa Giáo hoặc Cao Đài
v.v..
Vấn
đề hương hỏa phải được ghi nhận
trên bằng khoán đất như một di sản chung của gia đ́nh có hương hỏa.
Việc thờ cúng là một sinh hoạt thường
ngày của mọi gia đ́nh, nhưng không phải gia đ́nh
nào cũng có hương hỏa. Chỉ
có một số ít gia đ́nh xem trọng việc thờ cúng
Ông Bà mới đặt vấn đề hương hỏa.
Gia
đ́nh hương hỏa phải có tài sản: nhà và đất
đai. Phần di sản hương
hỏa không được nhiều hơn một phần
di sản thông thường khác của gia đ́nh.
Thí
dụ: một gia đ́nh có 6 người con: 3 trai, 3 gái th́
chia gia sản chung gồm 7 phần bằng
nhau gồm có, 6 phần gia sản thông thường và một
phần di sản hương hỏa.
Người
kế thừa hương hỏa phải là con trai trưởng
nam hoặc con trai út. Như vậy người thừa kế
có 2 phần gia sản: 1 phần là gia sản thông thường
cộng với 1 phần là di sản hương hỏa.
Gia
sản thông thường là của riêng của người
thừa kế, c̣n di sản hương hỏa là của chung, của mọi người trong gia đ́nh.
Người thừa kế chỉ có quyền quản lư và
hưởng huê lợi di sản hương hỏa chớ
không được chia sẽ, phân phối hoặc mua bán
hay cho thuê bằng mọi h́nh thức mà phải giữ nguyên
vẹn di sản hương hỏa (xem bản Định
Hướng về quản lư và tôn tạo Phủ Thờ tại
Vĩnh Trinh..)
Người
thừa kế hương hỏa phải là phái
Đó là cái tục lệ và truyền thống đă
áp dụng trong gia đ́nh cho đến
Chánh
nghĩa
Chánh
nghĩa là đúng với nghĩa vụ chung.
Đó là nghĩa vụ của chúng ta đối
với đại gia đ́nh để làm thế nào cho được
trọn vẹn đối với sự mong đợi của
Ông Cha chúng ta.
Ông
Bà chúng ta chắc chắn muốn con cháu được đoàn
kết sinh hoạt trong việc thờ cúng chung để
vung đấp cho gia đ́nh được tồn tại
và bền vững lâu dài. Đó là con đường chính
đáng, con đường lẽ phải của gia đ́nh,
là cái chính nghĩa của chúng ta.
Con
đường trái ngược với chánh nghĩa là con đường
bất chánh tức là những hành động sai lầm, u ám
có thể đem tới sự suy yếu và tan ră gia đ́nh
họ Nguyễn.
Thí
dụ: trong đại gia đ́nh họ Nguyễn th́ gia đ́nh
trưởng tộc có trách nhiệm thừa kế và điều
hành hương hỏa. Đó là gia đ́nh chi nhánh 2 (xem Gia
Phả) của Cậu Mợ Ba Nguyễn Kim Âu do anh Nguyễn
Thiện Cầu nối tiếp và đại diện.
Anh Cầu đă nhường việc thừa kế
hương hỏa cho anh Nguyễn Văn Điển, nhưng
cái trách nhiệm chánh nghĩa của anh Cầu vẫn c̣n đó.
Anh cầu phải lo giữ ǵn sự tồn tại và bền
vững của gia đ́nh, nhưng ngược lại anh đă
có hậu ư bất chánh, lấy của chung
làm của riêng, như vậy anh sẽ nhận ch́m và dập
tắt gia đ́nh họ Nguyễn. Thật đáng
tiếc.
Từ
đường
Từ đường là nơi ở của ông Từ
và nơi thờ cúng Ông Bà trong gia đ́nh (Phủ Thờ).
Người miền Trung gọi Phủ Thờ
là Từ Đường là 2 danh từ cùng một nghĩa.
Từ đường không phải là của riêng
của ông Từ cũng như trong đ́nh làng th́ ông Từ
không phải là chủ nhân của ngôi đ́nh.
Trong gia đ́nh chúng ta th́ Ông Từ là người
thừa kế hương hỏa suốt đời.
Người này chỉ có quyền nhường việc thừa
kế của ḿnh cho con trai họ Nguyễn.
Nếu
người thừa kế không có con trai nối nghiệp
th́ việc nối tiếp hương hỏa phải do sự
quyết định chung của mọi
người trong gia đ́nh (xem đề nghị Tổ chức
nội bộ gia đ́nh họ Nguyễn).
Lương
thiện
Gia đ́nh chúng ta có tiếng là một gia đ́nh lương
thiện ở địa phương Vĩnh Trinh. Ông Bà chúng ta không phải là ‘cường hào ác bá’, cũng
không phải là chủ điền bóc lột tá điền.
Trong
cái xă hội phức tạp hiện nay th́ chúng tan nên giữ
cái truyền thống lương thiện tốt đẹp
đó hay không.
Tôi
đọc báo hải ngoại có nói là người Việt
Dầu sao chúng ta cũng phải lưu ư đề
pḥng những kẻ bất lương, thủ đoạn
vốn rất đông đảo ngoài đời.
Đối với gia đ́nh th́ chúng ta rất tiếc
là hiện có một số thành viên đă đem cái thủ đoạn
bất lương ngoài đời đó đối xử
với người thân thích trong gia đ́nh.
Chúng ta hy vọng đó là một h́nh tượng
giao thời sẽ biến mất một khi gia đ́nh trở
nên lành mạnh và vững vàng hơn.
Chết
là hết, là tro bụi th́ c̣n biết ǵ?
Đó
là câu nói của tiền nhân gia đ́nh để lại mà một
người đă làm theo và lấy đó
làm một triết lư ở đời cho chính ḿnh.
Câu
nói đó là do nơi cậu Ba Nguyễn Kim Âu và người
làm theo là anh Nguyễn Thiện Cầu.
Với
sự kính trọng bẫm sinh của con cháu gia đ́nh đối
với Cha Ông, chúng tôi cẩn thận phân tách và t́m hiểu cái
ư nghĩa của câu nói trên và cái hậu quả của việc
áp dụng câu đó.
Khi
nói chết là hết, chết là tro bụi th́ rất đúng
đối với cơ thể vật chất của
chúng ta, đó là cái tiêu tan của mọi vật sau khi chúng
ta nằm xuống đất.
Câu nói kế tiếp là “th́ c̣n biết ǵ” thuộc
về tinh thần và có ư nói rằng ta không c̣n biết ǵ nữa.
Việc đó đúng hay không th́ không ai biết được
v́ không ai liên lạc được với thế giới
của người quá văng.
Nhưng
việc đó đều thuộc phạm vi
thể xác và tính của người chết chớ không có
liên hệ ǵ đến những người c̣n sống
chung quanh người quá văng như vậy câu đó không có tách
cách bao quát.
Sau khi chúng ta chết th́ c̣n biết bao nhiêu người,
biết bao nhiêu thế hệ sau chúng ta sẽ nhớ
đến những ǵ mà chúng ta đă làm lúc sanh tiền và
những việc đó hiện đang có ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của họ.
Một
thí dụ: Trong tiểu sử gia đ́nh họ Nguyễn
chúng ta có nói Bà Ngoại (Cao Thị Hiệp) là một
người đàn bà phi thường v́ một tay Bà đă dựng lên sự nghiệp của
gia đ́nh họ Nguyễn. Mặc dầu Bà đă
qua đời hơn 60 năm nay (1938) nhưng chúng ta vẫn
c̣n nhớ ơn Bà.
Một
kỹ niệm tốt đẹp khác là trường hợp
Cậu Tám Nguyễn Văn Khương ở Châu
Đốc. Chúng ta có nói là Cậu có công phá lũy tre
xanh để đưa chúng ta vào con đường học
vấn để bay nhảy với đời mà hiện
giờ sau gần 40 năm quá văng, chúng ta vẫn c̣n nhớ
và ghi ơn Cậu.
Đối với chúng ta hiện nay th́ việc mà
chúng ta đă làm hoặc sẽ làm không phải là hết mà c̣n
lại đời đời trong trí nhớ của con cháu
chúng ta mặc dầu khi chúng ta làm việc đó th́ không khi
nào chúng ta nghỉ đền cái hậu quả xa xăm đó.
Một
kỹ niệm không tốt đẹp khác là hiện nay đang
có một hiểm họa tan ră đại gia đ́nh họ
NGuyễn mà người chủ mưu có thể là một
người bất thường phá tan cái sự nghiệp
của Bà Ngoại.
Tôi không nêu danh người đó là ai v́ tôi không có
quyền và không muốn phê phán bất cứ ai trong gia đ́nh
mà tôi nhường cái suy xét đó cho các thế hệ sau biết
đó là ai. Tôi vẫn hy vọng là cái tiếng xấu
muôn đời đó sẽ là một sự tưởng tượng
không có thật, do cái kết quả chung
cuộc của tương lai gia đ́nh họ Nguyễn
cho thấy.
Trở
lại cái triết lư ở đời sau câu nói của Cậu
Ba “chết là hết” th́ chúng ta nên cẩn thận để
tránh cái sai lầm tai hại khi áp dụng
nó. Chết không phải là hết, không phải là tan biến
hết, cho nên cái lư luận cho rằng trước khi chết
th́ chúng ta cứ tung hoành làm những việc
đen tối, bất lương là không đúng.
Một
lư luận khác cho rằng gia đ́nh họ Nguyễn sẽ
tan ră theo cái định luật mọi việc đều
chấm dứt biến đổi cũng như nhiều
gia đ́nh to lớn và bề thế hon gia đ́nh họ
Nguyễn mà c̣n tan ră th́ chúng ta cho nó chấm dứt quách đi
chớ c̣n giữ nó tồn tại để làm ǵ là một
sai lầm tai hại. Cũng như mọi người đều
biết là con người mấy ai qua trăm tuổi th́ bây
giờ chết phức đi cho xong kiếp có phải không?
Câu nói chết là hết có thể áp dụng để
làm những việc trái ngược nhau th́ tại sao chúng
ta không xem đó phương châm để làm việc
tốt đẹp cho đại gia đ́nh chúng ta?
Hy vọng cái tương lai sẽ là như vậy.